Bản án 163/2019/HN&GĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN DÂN NHÂN THỊ XÃ LONG MỸ - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 163/2019/HN&GĐ-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 113/2019/TLST-HN&GĐ ngày 22/4/2019 vụ án "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thúy K, sinh năm: 1996.

Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã M, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Trọng N, sinh năm: 1991.

Địa chỉ cư trú: Khu vực H, phường T, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06/3/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trương Thị Thúy Kiều trình bày: Vào năm 2017 chị và anh Lê Trọng N kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 06/3/2017 tại Ủy ban nhân xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, hôn nhân do chị và anh N tự nguyện. Chị và anh N chung sống hạnh phúc đến tháng 09/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, anh N không quan tâm lo lắng cho gia đình, anh N xúc phạm chị, vợ chồng thường xuyên cự cãi và không tìm được tiếng nói chung. Chị và anh N đã ly thân từ tháng 9/2018 đến nay.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không thể hàn gắn được nên chị Kiều yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Chưa có nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Trọng N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị Kiều.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với chị Kiều: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay chị Kiều đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70,71 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với anh N chưa hiện đúng quy định tại Điều 70,72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung kiểm sát viên đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị Thúy K. Cho chị Trương Thị Thúy K được ly hôn với anh Lê Trọng N.

Về con chung: Chưa có nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đương sự phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn anh Lê Trọng N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thúy Kiều và anh Lê Trọng N kết hôn với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn ngày 06/3/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị Kiều, anh N là hợp pháp được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[3.1] Chị Kiều và anh N chung sống hạnh phúc đến tháng 09/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn tại phiên tòa chị Kiều trình bày là do bất đồng quan điểm, anh N xúc phạm chị, anh N không quan tâm, lo lắng cho gia đình, thường xuyên cự cãi, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, chị và anh N đã ly thân từ tháng 09/2018 đến nay. Từ khi ly thân đến nay chị không liên lạc được với anh N và anh N cũng không liên lạc với chị. Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn cuộc sống vợ chồng giữa chị Kiều và anh N nhưng tại phiên tòa chị Kiều vẫn cương quyết ly hôn với anh N. Điều đó cho thấy tình N vợ chồng giữa chị Kiều và anh N không thể hàn gắn được, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, yêu thương lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị Kiều là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chưa có nên không yêu cầu giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đương sự còn phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, 28, 35, 147, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào Điều 9, 53, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Thúy K. Cho chị Trương Thị Thúy K được ly hôn với anh Lê Trọng N.

Về con chung: Chưa có nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trương Thị Thúy Kiều phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), chuyển 300.000 đồng chị Kiều đã nộp theo biên lai thu số 0021191 ngày 22/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ thành án phí. Chị Kiều đã nộp xong.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn chị Trương Thị Thúy Kiều được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 04/9/2019. Bị đơn anh Lê Trọng N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2019/HN&GĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:163/2019/HN&GĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về