TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 163/2017/HSST NGÀY 11/12/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 11/12/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2017/HSST ngày 26 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Kpă T sinh ngày 01/4/1998 tại Gia Lai; nơi cư trú: Làng N, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông A và bà Kpă H’L; bị cáo có vợ là H’T, có 01 con (sinh tháng 10/2017); tiền án, tiền sự: Không; ngày 16/4/2017 điều khiển xe mô tô gây tai nạn giao thông làm chết 01 người, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
* Đại diện cho người bị hại: Chị R’Com H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Làng C, xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ R’Mah K - Sinh ngày 24/8/1999; trú tại làng N, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2/ Kpă H’L - Sinh ngày 24/8/1977; trú tại làng N, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Kpă Tiến bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi như sau: Kpă T không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định.
Khoảng 12 giờ ngày 16 tháng 4 năm 2017, Kpă T điều khiển xe mô tô biển số 81H3-0781 của R’Mah K chở K đi đến nhà anh G (Sinh năm: 1985) ở làng B, xã A, thành phố P để uống bia. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì nghỉ, T điều khiển xe mô tô biển số 81H3-0781 chở K lưu thông trên đường Nguyễn Chí Thanh theo hướng từ ngã ba đường Lê Duẩn với đường Nguyễn Chí Thanh đến ngã ba đường Lý Nam Đế với đường Nguyễn Chí Thanh để đi về nhà. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, khi đi gần đến ngã tư đường Nguyễn Chí Thanh với đường
Trương Định, thuộc Tổ 2, phường T, thành phố P thì T quay đầu lại phía sau để nói chuyện với K. Lúc này, xe mô tô do T điều khiển chạy với tốc độ khoảng 50 đến 60km/h (Theo lời khai của T) và đi lấn sang phần đường bên trái dành cho xe đi ngược chiều. Ngay sau khi vừa nói chuyện với K xong, T quay đầu lại nhìn về phía trước thì phát hiện phía trước cách xe mô tô của T khoảng 05 đến 10 mét có xe mô tô biển số 47M6-3542 do anh R’Cơm K điều khiển đang chuyển hướng rẽ trái từ đường Trương Định (theo hướng từ đường Lê Duẩn đến đường Nguyễn Chí Thanh) và đã lưu thông ngược chiều với xe mô tô của Kpă T trên đường Nguyễn Chí Thanh. Do khoảng cách gần và không kịp xử lý nên xe mô tô biển số 81H3-0781 do T điều khiển đã tông vào phía bên trái của xe mô tô biển số 47M6-3542 do anh K điều khiển, làm cả 02 xe mô tô và số người trên các xe mô tô này ngã xuống đường. Hậu quả: Anh K, T và K bị thương nên được quần chúng nhân dân đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai cấp cứu. Ngày 18 tháng 4 năm 2017, T và K ra viện. Đến ngày 21 tháng 4 năm 2017 thì anh R’Cơm K bị chết (Bút lục (BL) số 18-27; 75-83; 84-87; 89-90; 98-113).
Qua giám định, tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 162/TT-TTPY ngày 10/5/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai, kết luận nguyên nhân chết của anh R’Cơm K là do: “Vỡ sọ + Đa chấn thương do tai nạn giao thông”(BL số 22-23; 30-31).
* Qua khám nghiệm, hiện trường vụ tai nạn giao thông được xác định như sau:
Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại ngã tư đường Trương Định với đường Nguyễn Chí Thanh, thuộc Tổ 2, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Tại nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông, đường Nguyễn Chí Thanh và đường Trương Định là đường hai chiều, mặt đường được rải nhựa; đường Nguyễn Chí Thanh rộng 7,2 mét, đường Trương Định rộng 3,45 mét. Xác định trụ điện trước Cửa hàng vật liệu xây dựng Chí Dung trên đường Nguyễn Chí Thanh làm mốc và mép đường bên phải đường Nguyễn Chí Thanh theo hướng từ đường Lê Duẩn đến đường Trường Chinh làm chuẩn để đo.
Tại hiện trường, phát hiện vết cày đứt quãng có diện (10,4 x 0,12)m, vết có chiều hướng từ đường Lê Duẩn đến đường Trường Chinh, vết cày này được ký hiệu là 1, đầu vết cách mép đường làm chuẩn là 4,15 mét, cuối vết cách mép đường làm chuẩn là 6,6 mét. Tại đầu vết cày này, phát hiện có 02 vết cày nhỏ cách nhau 0,2 mét.
Sau khi va chạm, xe mô tô biển số 47M6-3542 nằm ngã nghiêng bên phải trên mặt đường, xe mô tô này được ký hiệu là 2. Tâm trục bánh trước của xe mô tô cách mép đường làm chuẩn là 9,4 mét, tâm trục bánh sau của xe mô tô cách mép đường làm chuẩn là 8,09 mét.
Tại hiện trường, phát hiện vết máu thứ nhất có diện (0,45 x 0,2)m, vết máu được ký hiệu là 3. Tâm vết 3 cách mép đường làm chuẩn là 7,11 mét.
Sau khi va chạm, xe mô tô biển số 81H3-0781 nằm ngã nghiêng bên phải trên mặt đường, xe mô tô này được ký hiệu là 4. Tâm trục bánh trước của xe mô tô cách mép đường làm chuẩn là 6,98 mét, cách tâm vết máu 3 là 1,09 mét. Tâm trục bánh sau của xe mô tô cách mép đường làm chuẩn là 6,87 mét.
Tại hiện trường, phát hiện vết máu thứ hai có diện (01 x 0,35)m trên sân bê tông trước Cửa hàng vật liệu xây dựng Chí Dung, vết máu này được ký hiệu là 5.
Tâm vết máu cách mép đường làm chuẩn là 10,59 mét, cách tâm trục bánh sau của xe mô tô biển số 81H3-0781 là 4,84 mét và cách tâm trục bánh trước của xe mô tô biển số 47M6-3542 là 9,3 mét.
Tại hiện trường, phát hiện vết chà thứ nhất có diện (6,67 x 0,42)m, chiều hướng từ đường Lê Duẩn đến đường Trường Chinh, vết chà này được ký hiệu là 6. Đầu vết chà cách mép đường làm chuẩn là 5,2 mét, cách đầu vết cày 1 là 7,4 mét và cách cuối vết cày 1 là 1,24 mét. Cuối vết chà trùng với thân xe bên phải của xe mô tô biển số 81H3-0781.
Tại hiện trường, phát hiện vết chà thứ hai có diện (4,83 x 0,33)m, vết chà này được ký hiệu là 7. Đầu vết chà cách mép đường làm chuẩn là 6,07 mét và cách điểm cuối vết cày 1 là 0,96 mét. Cuối vết chà trùng với lốp trước bên phải của xe mô tô biển số 47M6-3542. Tại đầu vết chà này, phát hiện vết chà sạch bụi trên mặt đường, bề mặt dính chất màu đen.
Tại hiện trường, phát hiện vùng mảnh vỡ nhựa có diện (4,02 x 0,6)m. Tâm mảnh vỡ cách mép đường làm chuẩn là 7,98 mét, cách tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 47M6-3542 là 2,33 mét và cách tâm trục bánh trước xe mô tô biển số 81H3-0781 là 2,75 mét (BL số 18-21).
* Qua khám nghiệm dấu vết trên xe mô tô biển số 81H3-0781, thể hiện:
Phuộc nhún trước bên phải bị cong vênh, lệch khỏi vị trí ban đầu về phía sau 18cm, chiều hướng từ trước ra sau và từ trái qua phải. Vành bánh xe phía trước bị móp méo, nứt kim loại diện (22 x 05)cm, chiều hướng từ trước ra sau, cách chân van 40cm theo chiều ngược chiều kim đồng hồ; tại vị trí vành bánh xe bị móp méo này có dính chất màu đen diện (7,2 x 0,5)cm. Đĩa thắng trước bên phải bị trầy xước kim loại, dính chất màu đen diện (5,6 x 1,7)cm, chiều hướng từ trước ra sau; tại vị trí này, đĩa thắng bị lệch về bên trái 0,5cm so với vị trí ban đầu, tâm vết cách mặt đất 19,5cm, cách vị trí vành xe trước bị móp méo 8,5cm. Mặt ngoài lốp trước của xe mô tô bị chà xát, rách cao su diện (20,3 x 5,5)cm, tâm vết cách chân van 16,3cm theo chiều ngược chiều kim đồng hồ. Trục bánh trước bên trái, tại vị trí tiếp giáp với phuộc nhún trước bên trái bị cong vênh, lệch so với vị trí ban đầu 05cm, chiều hướng từ trước ra sau. Mặt nạ đồng hồ công tơ mét bị vỡ hoàn toàn phần ốp nhựa bảo vệ. Đồng hồ công tơ mét rời khỏi vị trí cố định. Toàn bộ phần mặt nạ chắn gió phía trước bị vỡ diện (40 x 35)cm. Cụm thắng tay bị gãy, rời khỏi vị trí lắp ráp.
Mặt ngoài tay nắm bên phải của tay lái xe có vết trầy xước kim loại diện (0,5 x 01)cm, chiều hướng không xác định. Tay lái của xe bị lệch so với vị trí ban đầ 22cm, theo chiều hướng từ trái qua phải và từ trước ra sau. Tại vị trí gác ba ga giữa xe được lắp thêm giỏ màu đen bằng kim loại, bị móp méo, cong vênh và biến dạng, chiều hướng từ sau ra trước và từ trên xuống dưới. Phuộc nhún trước bên trái của xe mô tô bị gãy tại vị trí tiếp giáp với chảng ba bên trái, vết nứt gãy kim loại có diện (03 x 0,2)cm, tâm vết cách mặt đất 53cm, chiều hướng từ trước ra sau và từ trái qua phải; phuộc nhún trước bên trái bị lệch khỏi vị trí ban đầu về phía sau 15cm. Mặt ngoài ống xả khói, vị trí tiếp giáp với lốc máy bị vỡ, móp méo kim loại diện (17,5 x 06)cm, chiều hướng từ trước ra sau và từ trái qua phải, tâm vết cách mặt đất 26,5cm. Tại vị trí 1/2 trước bên phải của lốc máy có vết nứt gãy kim loại diện (7,2 x 7,5)cm. Tại vị trí 1/2 trước của ốp nhựa bảo vệ thân xe phía bên phải có vết trầy xước, vỡ nhựa diện (33 x 15,2)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Mặt ngoài phía trước của gác để chân trước bên phải có vết mài mòn cao su và kim loại diện (2,5 x 2,2)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Gác để chân sau bên phải bị gãy, rời khỏi vị trí lắp ráp, làm ống xả khói được bắt cố định vào vị trí này lệch về phía dưới 24,2cm. Phần ốp nhựa bảo vệ thân xe phía sau bên phải bị vỡ nhựa diện (18,5 x 19)cm, tâm vết cách mép ngoài biển số xe 15cm. Hộp đèn Stop phía sau xe bị gãy các chốt bắt cố định, lệch khỏi vị trí lắp ráp về phía sau 02cm. Tại vị trí 1/2 trước bên phải khung kim loại bảo vệ đuôi xe có vết trầy xước sơn, mài mòn kim loại diện (12,7 x 1,5)cm, chiều hướng từ trước ra sau và từ trái qua phải. Phần ốp nhựa bảo vệ thân xe bên trái bị vỡ hoàn toàn diện (72 x 18,8)cm (BL số 26-27).
* Qua khám nghiệm dấu vết trên xe mô tô biển số 47M6-3542, thể hiện:
1/2 trước ốp nhựa bảo vệ thân xe bên trái bị bể nhựa diện (33,5 x 29,8)cm, chiều hướng từ trái qua phải. Mặt ngoài trước bên trái của khung kim loại bình xăng có vết trầy xước, bong tróc sơn, móp méo kim loại diện (3,8 x 3,2)cm, chiều hướng từ ngoài vào trong và từ trước ra sau. Lốc máy bên trái bị bể, vỡ kim loại diện (23 x 14,5)cm, chiều hướng từ trước ra sau và từ trái qua phải. 1/2 trước của bàn đạp số bị lệch vào phía trong 02 cm so với vị trí ban đầu. Phần ốp nhựa đầu xe bảo vệ đồng hồ công tơ mét bị vỡ diện (25 x 16)cm, đồng hồ công tơ mét bị bung khỏi vị trí lắp ráp. Mặt ngoài của tay ga bên phải có vết trầy xước cao su, mài mòn kim loại diện (05 x 2,5)cm. Tay thắng bị gãy, rời khỏi vị trí lắp ráp 1,1cm. Mặt ngoài, phía trên của tay thắng, tại vị trí tiếp giáp với ốp nhựa bảo vệ đầu xe có vết trầy xước sơn, mài mòn kim loại diện (09 x 3,5)cm, chiều hướng không xác định. Tại vị trí 1/2 bên phải của ốp nhựa bảo vệ đèn xe có vết trầy xước sơn diện (17 x 7,5)cm, chiều hướng từ dưới lên trên và từ phải qua trái. Mặt ngoài bửng chắn gió trước bên phải có vết trầy xước sơn diện (52 x 04)cm, chiều hướng từ dưới lên trên và từ phải qua trái. Mặt ngoài lốc máy bên phải có vết trầy xước kim loại diện (03 x 0,2)cm, chiều hướng từ sau ra trước. Mặt ngoài bàn đạp thắng có vết mài mòn kim loại diện (3,5 x 0,15)cm, chiều hướng từ dưới lên trên. Mặt dưới, ngoài của 1/2 trước cần đạp thắng có vết mài mòn kim loại diện (15 x 0,3)cm, chiều hướng từ dưới lên trên. Gác để chân trước bên phải bị lệch so với vị trí ban đầu về phía sau 7,1cm. Mặt ngoài gác để chân trước bên phải có vết mài mòn cao su và kim loại diện (04 x 2,5)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Mặt ngoài, phần cuối của ống xả khói có vết mài mòn kim loại diện (4,3 x 8,7)cm, chiều hướng từ dưới lên trên.
Cụm đèn sau, biển số xe và dè chắn bùn sau bị gãy vỡ, rơi khỏi vị trí lắp ráp. ½ trước ốp nhựa bảo vệ thân xe bên trái bị bể nhựa diện (33,5 x 29,8)cm, chiều hướng từ trái qua phải. Mặt ngoài bên phải lốp xe trước bên phải có vết chà sạch bụi, mài mòn cao su diện (21 x 2,5)cm, tâm vết cách chân van 39cm theo chiều kim đồng hồ (BL số 24-25).
Sau khi khám nghiệm dấu vết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã trả xe mô tô biển số 81H3-0781 cho R’Mah K là chủ sở hữu, trả xe mô tô biển số 47M6-3542 cho chị R’Com HW (Sinh năm 1985, trú tại làng C, xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai) là đại diện theo ủy quyền của các đại diện hợp pháp của bị hại R’Cơm K (BL số 53; 54; 63).
Tại Cáo trạng số 152/CTr-VKS ngày 24 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố Kpă T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47, Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Kpă T từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Kpă T đã khai nhận như sau:
Vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 16 tháng 4 năm 2017, Kpă T điều khiển xe mô tô biển số 81H3-0781 chở R’Mah K lưu thông trên đường Nguyễn Chí Thanh theo hướng từ ngã ba đường Lê Duẩn với đường Nguyễn Chí Thanh đi đến ngã ba đường Lý Nam Đế với đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố P. Khi đi đến ngã tư đường Nguyễn Chí Thanh với đường Trương Định, thuộc Tổ 2, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, thì xe mô tô biển số 81H3-0781 do T điều khiển đã tông vào bên trái của xe mô tô biển số 47M6-3542 do anh R’Cơm K điều khiển đang chuyển hướng rẽ trái từ đường Trương Định (theo hướng từ đường Lê Duẩn đến đường Nguyễn Chí Thanh) và đã lưu thông ngược chiều với xe mô tô của Kpă T trên đường Nguyễn Chí Thanh. Hậu quả làm anh R’Cơm K bị chết.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ như Biên bản khám nghiệm hiện trường cho thấy rằng bị cáo là người có lỗi trong vụ án do điều khiển xe máy tham gia giao thông không tuân thủ pháp luật về giao thông đường bộ: Điều khiển xe trên 50cm3 không có bằng lái xe , thiếu tập trung quan sát, không giảm tốc độ của xe mô tô đến mức không nguy hiểm khi có chướng ngại vật ở phía trước và xử lý kém gây ra tai nạn giao thông với hậu quả nghiêm trọng làm chết một người, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Xét toàn bộ các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa: Biên bản khám nghiệm xe, biên bản hiện trường thì thấy lỗi trong vụ án này là lỗi hỗn hợp của cả bị cáo và người bị hại.
Tình trạng tai nạn giao thông đường bộ trong giai đoạn này đang diễn biến phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt đối với đời sống xã hội. Nhà nước ta đang đẩy mạnh công tác đấu tranh để giảm thiểu tình trạng này. Hơn nữa, phương tiện xe mô tô khi tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy đòi hỏi mọi công dân khi tham gia giao thông đểu phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho người điều khiển cũng như mọi người xung quanh. Bị cáo là người nhận thức rõ về điều này nhưng khi điều khiển xe tham gia giao thông đã không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xét đến một phần nguyên nhân của việc phạm tội là người bị hại anh R’Cơm K cũng có một phần lỗi là điều khiển xe mô tô tham gia giao thông đi ngược chiều và chuyển hướng đi không đảm bảo an toàn, không nhường đường cho xe mô tô do bị cáo điều khiển đang đi ngược chiều đến.
Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, quá trình giải quyết vụ án bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi gây tai nạn bị cáo tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại để khắc phục hậu quả, đại diện người bị hại không yêu cầu gì thêm về phần dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, xét thấy cần áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt, cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo. Để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.
Về dân sự:
Sau khi tai nạn xảy ra, gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 144.220.000 đồng. Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại và người liên quan không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Kpă T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 47 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Kpă T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù ; thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.
Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Buộc bị cáo Kpă T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, đại diện người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Những người vắng mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo được tính từ ngày bản án được tống đạt.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 163/2017/HSST ngày 11/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 163/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về