Bản án 162/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 162/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2021VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét xử sơ thẩm công khai, vụ án dân sự thụ lý số: 1294/2020/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 392/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021.

Nguyên đơn: Bà Dương Thị N - sinh năm: 1987;

Địa chỉ: Đường C, phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Trần Trọng T - sinh năm: 1984;

Địa chỉ: Đường C, phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16 tháng 10 năm 2020, bản tự khai, qua các lần làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là bà Dương Thị N trình bày: Bà N với ông T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Nam Định theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 09, quyển số 01/2008 ngày 18 tháng 01 năm 2008. Quá trình chung sống, đôi bên thường xuyên cãi nhau, ông T bỏ bê gia đình không quan tâm đến vợ con, bỏ nhà đi đâu không rõ, nguyên nhân là do quan niệm sống, cách nhìn nhận cuộc sống không phù hợp, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay nhận thấy không thể khắc phục được mâu thuẫn vợ chồng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T để ổn định cuộc sống.

Trong thời gian chung sống bà N, ông T có một con chung tên: Trần Đăng K, sinh ngày: 27/04/2010, khi ly hôn bà N xin được quyền nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Về tài sản chung, về nợ chung: Bà N xác định không có.

Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập cho bà N, bà N có đơn xin vắng mặt tại các phiên tòa.

Đối với ông Trần Trọng T, Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án cho đương sự, triệu tập cho ông T tới Tòa án để ghi bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông T tham gia phiên tòa, tại phiên tòa này ông T vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn xin được giải quyết ly hôn và xin được nuôi con theo nội dung đã trình bày là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số: 09, quyển số 01/2008 ngày 18 tháng 01 năm 2008 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Nam Định cấp cho bà Dương Thị N và ông TrầnTrọng Tạo đã xác định quan hệ hôn nhân giữa bà N, ông T là quan hệ hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình.

Yêu cầu xin ly hôn của bà N đối với ông T là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

Đối với yêu cầu ly hôn của bà N thì Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Bà N yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn, theo nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không còn tình cảm, có mâu thuẫn trầm trọng, hiện nay vợ chồng không còn chung sống. Như vậy vợ chồng không còn thương yêu nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc ông T không tới Tòa án tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa cũng đã thể hiện ông T không mong muốn đoàn tụ với bà N, Hội đồng xét xử thấy rằng nên chấp nhận giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn.

[2.2] Về con chung bà N xác nhận có một con chung tên: Trần Đăng K, sinh ngày: 27/04/2010, khi ly hôn bà N xin được quyền nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, xét yêu cầu của bà N là có cơ sở nên được chấp nhận.

[2.3] Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét những vấn đề này.

Từ những nhận định như trên Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết cho bà N được ly hôn với ông T, cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà N được ly hôn với ông T, quan hệ hôn nhân chấm dứt ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Có một con chung tên: Trần Đăng K, sinh ngày: 27/04/2010, khi ly hôn bà N xin được quyền nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

[2.4] Bà N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Bà Dương Thị N được ly hôn với ông Trần Trọng T.

Quan hệ hôn nhân theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 09, quyển số 01/2008 ngày 18 tháng 01 năm 2008 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Nam Định cấp cho bà Dương Thị N và ông Trần Trọng T chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Có một con chung tên: Trần Đăng K, sinh ngày: 27/04/2010, bà N trực tiếp nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của ông T do bà N không yêu cầu.

Ông T được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích con, khi cần thiết các đương sự có quyền yêu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà N phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai số: AA/2019/0027190 ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà N đã nộp đủ án phí.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

4. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:162/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về