Bản án 162/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 162/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 413/2019/TLST-DS ngày 03 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2019/QĐXX-ST ngày 11 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1974; địa chỉ: số nhà 430, ấp 2, xã K, huyện C, tỉnh An Giang, (có mặt)

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn P, văn phòng luật sư Nguyễn Văn P, thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang; địa chỉ: Số 477A/24 đường Q, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang, (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Trương Văn Bạc E, sinh năm 1976; địa chỉ: số nhà 430, ấp 2, xã K, huyện C, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tụ khai, biên bản không hòa giải được và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bạc E do quen biết và tiến đến hôn nhân vào năm 1993 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sống chung hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, hay cự cãi, anh Bạc E không lo cho gia đình và không còn sống chung cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên yêu cầu ly hôn với anh Trương Văn Bạc E.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trương Văn Q, sinh năm 1994 và Trương Văn N1, sinh năm 1999. Hiện các con đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Huỳnh N xác định không có.

Bị đơn anh Trương Văn Bạc E được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không lý do và cũng không gửi ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn nên không hòa giải được vụ án.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn P trình bày:

- Về hôn nhân: Chị N và anh Bạc E do quen biết và tiến đến hôn nhân vào năm 1993 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, sống chung hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, hay cự cãi, anh Bạc E không lo cho gia đình, anh chị không còn sống chung từ năm 2018 cho đến nay. Từ những căn cứ trên đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận chị N, anh Bạc E là vợ chồng.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trương Văn Q, sinh năm 1994 và Trương Văn N1, sinh năm 1999. Hiện các con đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N xác định không có nên nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N khởi kiện anh Trương Văn Bạc E cư trú ấp 2, xã K, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện C thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Trương Văn Bạc E đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định xét xử và quyết định hoãn phiên toà và triệu tập để tham dự phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bạc E.

[2]. Về hôn nhân: Chị N và anh Bạc E sống chung với nhau vào năm 1993 nhưng không đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Căn cứ Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử không công nhận chị N và anh Bạc E là vợ chồng.

[3]. Về con chung: Chị N xác định vợ chồng có 02 con chung tên Trương Văn Q, sinh năm 1994 và Trương Văn N1, sinh năm 1999. Hiện các con đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị N xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về nợ chung: Chị N xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị N xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị N và anh Bạc E trong thời kỳ chung sống thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[6]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Huỳnh N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 53,14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 238 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Huỳnh N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị Huỳnh N và anh Trương Văn Bạc E là vợ chồng.

- Về con chung: Chị N xác định vợ chồng có 02 con chung tên Trương Văn Q, sinh năm 1994 và Trương Văn N1, sinh năm 1999. Hiện các con đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0012989 ngày 03/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang. Chị Nguyễn Thị Huỳnh N không phải nộp thêm.

Đương sự có mặt tham gia phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:162/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về