TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 162/2018/HS-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 149/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn Q; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20/12/1978 tại thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: Khối P, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Đánh cá; Trình độ văn hóa: Lớp 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Hữu C (đã chết) và bà Lê Thị N, sinh năm 1950; Vợ: Hồ Thị H, sinh năm 1977; con có 02 con: lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2000; Tiền sự: Không; Tiền án: Năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ra trại vào ngày 10/5/2006; Năm 2007, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong ra trại vào ngày 25/6/2009; Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ra trại vào ngày 07/3/2015. Tại biên bản xác minh do Cơ quan cảnh sát điều tra lập ngày 20/9/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xác định Nguyễn Văn Q mới thi hành nộp được 500.000 đồng tiền sung công quỹ Nhà nước. Số tiền còn lại chưa thi hành gồm: 1.200.000đồng tiền sung công quỹ Nhà nước và 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An từ ngày 23/6/2018 cho đến nay. Có mặt
- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị Sự, Văn phòng luật sư Dung Sự và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An – có mặt
- Người bị hại: Bà Trần Thị T; sinh năm: 1962; trú tại: Khối P, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An – có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 17/6/2018, Nguyễn Văn Q, sinh năm 1978, trú tại khối P, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An cùng vợ là Hồ Thị H, sinh năm 1977 đến nhà chị dâu là Đỗ Thị M ở cùng khối để ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, Q cùng chị H về nhà mình nằm xem tivi và ngủ. Đến khoảng 00 giờ 30 ngày 18/6/2018, Q thức dậy, nảy sinh ý định đi đến nhà bà T để trộm cắp tài sản, Q mặc quần dài đi đến phòng khách của gia đình ngồi uống một lon bia. Sau khi uống xong lon bia, Q mặc áo khoác chống nắng, dạng áo nỉ màu xám có mũ trùm đầu, bên trong túi áo này có một đôi găng tay bằng len. Q đi bộ từ nhà mình đến nhà chị M để đi vệ sinh. Khi đi ra thấy trên bàn gạch tại sân nhà chị Mai có một con dao, loại dao chặt, Q cầm lấy con dao này dắt vào lưng quần bên trái và dấu phần dao phía trên vào trong áo khoác rồi đi bộ ra đường bờ sông, theo đường bờ sông đến nhà bà T. Lúc này, khoảng 01 giờ ngày 18/6/2018, tại cửa cổng nhà bà T, Q nhìn thấy cửa cổng đã được khóa. Q kéo mũ của áo khoác trùm kín đầu, đeo găng tay vào và trèo qua bờ tường rào vào hiên nhà bà T. Q đi qua cửa vào gian nhà chính, thấy tại giường sát gian hộp đã được buông màn, cửa sổ cạnh giường mở. Trên giường, bà T nằm ngủ, đầu hướng về phía bàn thờ gần cửa sổ, chân hướng về phía cầu thang lên tầng hai. Q đi đến và ngồi ở nền gạch cạnh giường phía đầu bà T nằm để quan sát khoảng 10 phút. Lúc này bà T đang ngủ, người hơi nghiêng sang phải ra hướng cửa gian nhà, lưng hướng cửa sổ. Q nảy sinh ý định dùng sống dao đánh vào đầu làm bà T ngất đi để chiếm đoạt tài sản trên người bà T. Q rút con dao trong người ra cầm ở tay trái, tay phải Q kéo màn ở giường phía đầu của bà T lên. Đồng thời, Q cầm dao ở tay trái giơ lên đưa vào phía trong màn và dùng sống dao (phần không sắc) đánh một nhát trúng vào vùng đầu phía sau bên trái của bà T. Bà T bị đánh liền kêu hét: “Vơ trời ơi cứu tui với”. Đồng thời, bà T dùng hai tay vung lên chống trả. Q tiếp tục cầm dao ở tay trái, bước lên trên giường, ngồi xổm bên phải sát cạnh vị trí bà T nằm. Đồng thời dùng dao chém bà T. Bà T khua hai tay về phía trước, tay trái của bà T nắm được cổ tay phải của Q, Q giằng ra rồi tiếp tục chém vào đầu, mặt và hai tay bà T, bà T tiếp tục hét kêu cứu. Lúc này anh Dương Xuân H, sinh năm 1996 và anh Nguyễn Đức C, sinh năm 1996 (cùng trú tại khối P, phường Q) đang xem bóng đá đối diện nhà bà T, nghe thấy tiếng bà T kêu cứu.
Anh H và anh C chạy đến trước cửa cổng nhà bà T gọi: “Bà T ơi, bà T” (quá trình thực nghiệm điều tra xác định cả bà T và Q đều không nghe thấy tiếng gọi của anh H và anh C). Q nhìn ra cửa cổng nhà bà T thấy có người, sợ bị phát giác nên Q cầm dao bỏ chạy ra ngoài sân rồi chạy đến khu vực các bể nước mắm bên trái nhà của bà T và trèo qua tường rào nhà sang sân nhà anh Phạm Văn G, sinh năm 1984 trú cùng khối P, Q chạy tiếp đến nhà chị M, vào nhà tắm rửa sạch con dao gây án và để vào vị trí như ban đầu. Đồng thời, Q tháo đôi găng tay, cởi áo khoác ngoài và dùng áo khoác này gói bọc đôi găng tay lại. Q cầm áo khoác và đôi găng tay này đi theo đường ra bờ sông. Q dùng gạch đá nhặt ở đường cho vào phía trong cái áo khoác bọc gói lại cùng đôi găng tay và ném xuống sông rồi đi về nhà ngủ như bình thường. Đến ngày 23/6/2018, Nguyễn Văn Q đến trụ sở Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Còn bà Trần Thị T được quần chúng nhân dân phát hiện và đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Việt Đức ở Hà Nội.
Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của bà Trần Thị T vào hồi 14 giờ ngày 20/6/2018, tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức: 01 vết thương vùng trán dài 10cm; 01 vết thương dài 10cm ở cẳng tay phải bề trụ, bị xương trụ gãy; 01 vết thương ở bàn tay phải, kích thước 08cm, gãy hở đốt bàn ngón 4,5; Nhiều vết thương ở mu bàn tay trái, kích thước 01-02cm.
Ngày 24/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh tiến hành thực nghiệm điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Q. Quá trình thực nghiệm, đối tượng Nguyễn Văn Q đã thực hiện lại các hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra.
Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 1694 giám định xác định thương tích của bà Trần Thị T tại Trung tâm Pháp y tỉnh Nghệ An. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 241 ngày 08/8/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Nghệ An kết luận bà Trần Thị T:
1. Chấn thương vỡ lún xương sọ mẻ xương sọ vùng trán đỉnh, dập não, tụ máu ngoài màng cứng trán bên phải đã phẫu thuật, hiện tại khuyết xương sọ trán bên phải.
- Gãy xương trụ cẳng tay phải; gãy xương bàn IV, V tay phải; gãy xương bàn II, III tay trái; gãy xương đốt 2 ngón V bàn tay trái đã phẫu thuật còn phương tiện kết hợp xương.
- Đứt gân duỗi các ngón bàn tay phải đã phẫu thuật khâu nối gân hiện tại ảnh hưởng nhiều đến động tác gấp, duỗi bàn ngón tay phải.
- Đứt gân duỗi các ngón bàn tay trái đã phẫu thuật khâu nối hiện tại ảnh hưởng ít đến động tác gấp duỗi các ngón III, IV, V bàn tay trái.
- Sẹo vết thương vùng trán bên phải và sống mũi có ảnh hưởng thẩm mỹ.
- Một số sẹo vết thương tại các vị trí: Thái dương đỉnh trái, trán đỉnh trái, trán đỉnh phải, thái dương đỉnh phải, vành tai trái, môi trên bên phải, 1/3 dưới cẳng tay phải, mặt sau bàn tay phải, mặt sau bàn tay trái và các mặt sau các ngón IV, V bàn tay trái.
2. Tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 64% (Sáu mươi tư phần trăm).
Ngày 06/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra có Công văn số 1415 gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh về việc yêu cầu biện luận dấu vết trên cơ thể bà Trần Thị T. Ngày 23/8/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh có Công văn số 61/BL-PC09 kết luận như sau:
- Tất các các vết thương ở vùng: đầu, trán, sống mũi, mặt, cẳng tay phải và hai bàn tay (trừ vết thương ở tai trái) là do vật sắc tác động tạo nên.
- Vết thương ở tai trái khả năng do vật tày có cạnh tác động tạo nên.
- Trên cơ thể bà Trần Thị T có 23 sẹo vết thương.
- Các vết thương ở phần đầu, trán, mặt của bà Trần Thị T nằm trong vùng nguy hiểm đến tính mạng.
- Cường độ tác động của các phát chém tạo nên các vết thương ở phần đầu, trán và mặt bà Trần Thị T rất mạnh.(BL 33-34)
Ngày 20/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 389 trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định ADN các vật chứng thu giữ được trong quá trình điều tra vụ án. Tại bản kết luận số: 3379/C54(TT3) ngày 16/7/2018 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
1. Trên đôi dép ký hiệu M10 không có máu.
2. Các dấu vết nghi máu ký hiệu M1, M3, M4, M5, M8 và các dấu vết nghi máu trên chiếc quần bò ký hiệu M9 là máu người, do chất lượng mẫu kém nên không phân tích được kiểu gen.
3. Trên mẫu móng tay ghi thu của Nguyễn Văn Q (ký hiệu M11) có tế bào người, không phải là tế bào của Trần Thị T.
4. Trên các mẫu ký hiệu M2, M6, M7 có máu của Trần Thị T.
5. Lưu kiểu gen của Trần Thị T tại Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an.
Ngày 10/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 1617 trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định bổ sung các vật chứng thu giữ được trong quá trình điều tra vụ án. Tại bản kết luận số: 3379/C54(TT3) ngày 16/7/2018 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
1. Không phát hiện thấy máu trên chiếc áo phông và trên chiếc quần bò ghi thu của Nguyễn Văn Q.
2. Trên lưỡi dao gửi giám định có bám dính máu của bà Trần Thị T.
3. Trên chuôi dao gửi giám định có bám dính tế báo của nhiều người, do kiểu gen lẫn nên không xác định được kiểu gen của từng người.
4. Lưu kiểu gen của Nguyễn Văn Q tại Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an.
Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị T yêu cầu Nguyễn Văn Q phải đền bù số tiền: 101.749.000 đ (Một trăm linh một triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn đồng).
Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra thu giữ gồm:
- 01 (một) áo phông ngắn tay có cổ, màu xanh. Trên ngực trái có in chữ “Happy Family”, áo đã qua sử dụng.
- 01 (một) quần bò dài màu đen tím, phía sau bên phải có gắn mác in chữ “DSQ2”, quần đã qua sử dụng.
- 01 (một) con dao có chiều dài 42 cm, cán dao bằng gỗ dài 13,2cm; lưỡi dao làm bằng kim loại dài 28.8cm, nơi rộng nhất lưỡi dao 6.6cm, nơi hẹp nhất lưỡi dao 2,8cm.
Với nội dung trên, Bản cáo trạng số 175/CT/VKS-P2 ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố Nguyễn Văn Q về tội “Giết người”, theo điểm n, p khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 15 đến 16 năm tù về tội “Giết người”.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường với tổng số tiền là 101.749.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn Q nhất trí bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo phải bồi thường cho bà Trần Thị T số tiền 101.749.000 đồng.
Về vật chứng: Các vật chứng có liên quan không có giá trị nên đề nghị tuyên hủy.
Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra bị cáo có khai báo về mục đích đến nhà bà T để trộm tài sản, nhưng chưa lấy được tài sản và không có tài liệu nào ngoài lời khai của bị cáo chứng minh về hành vi lấy tài sản nên không truy tố xét xử về tội “Cướp tài sản”.
Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận về phần tội danh mà bị cáo bị xét xử, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo nên chưa có tiền bồi thường cho gia đình bị hại, bị cáo sau khi phạm tội đã đầu thú, bà nội là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, có chú ruột là Liệt sỹ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo thấp hơn mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo đồng ý với quan điểm bào chữa của luật sư, không bổ sung ý kiến tranh luận gì với ý kiến của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bị hại không tranh luận với ý kiến của kiểm sát viên và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 101.749.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng 01 giờ ngày 18/6/2018, Nguyễn Văn Q, lấy một con dao (loại dao chặt) ở sân nhà chị Đỗ Thị M rồi đi sang nhà bà Trần Thị T để lấy trộm tài sản. Khi vào nhà, thấy bà T đang nằm ngủ, Q dùng sống dao đánh một phát vào đầu làm bà T ngất để chiếm đoạt tài sản trên người bà T. Q rút con dao trong người ra cầm ở tay trái, tay phải Q kéo màn ở giường phía đầu của bà T lên, đồng thời Q cầm dao ở tay trái giơ lên đưa vào phía trong màn và dùng sống dao (phần không sắc) đánh một nhát trúng vào vùng đầu phía sau bên trái của bà T, bà T bị đánh liền kêu hét, Q tiếp tục cầm dao ở tay trái, bước lên trên giường, ngồi xổm bên phải sát cạnh vị trí bà T nằm. Đồng thời dùng dao chém bà T, bà T khua hai tay về phía trước, tay trái của bà T nắm được cổ tay phải của Q, Q giằng ra rồi tiếp tục chém vào đầu, mặt và hai tay bà T, bà T tiếp tục kêu cứu. Lúc này, Q nhìn ra cửa cổng nhà bà T thấy có người, sợ bị phát giác nên Q cầm dao bỏ chạy. Bà T được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Tổn hại sức khỏe tỷ lệ thương tật tại thời điểm giám định là 64%. Trong vụ án này người bị hại không có lỗi nhưng bị cáo đã dùng dao chém nhiều nhát vào vùng đầu bà T là bộ phận trọng yếu của cơ thể có khả năng làm chết người cao, bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, mặc dù hậuquả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo nên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người “. Ngoài ra khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo có ba tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Giếtngười” có tính chất côn đồ theo điểm n và tái phạm nguy hiểm theo p khoản 1 điều 123 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật. [2] Xét các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 03 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Nhưng bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt nên không áp dụng tình tiết này là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan công an đầu thú, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, hậu quả chết người chưa xảy ra. Do đó cũng cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Trong quá trình bà Trần Thị T nằm viện điều trị thì gia đình bị cáo có sang thăm hỏi sức khỏe bà T được 500.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận chưa bồi thường cho bà T được khoản tiền nào. Do đó, xác định đây là tiền thăm hỏi nên không thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự nguyện bồithường thiệt hại, khắc phục hậu quả” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Bị cáo trình bày bà Nội của bị cáo là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có chú ruột là liệt sỹ nhưng theo quy định pháp luật thì những tình tiết đó không phải là tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Vì vậy, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 khi xem xét hình phạt đối với bị cáo.
[3] Xét về hành vi tính chất phạm tội:
Xét tính chất vụ án đặc biệt nghiêm trọng, khi người bị hại không có lỗi nhưng bị cáo Nguyễn Văn Q đã dùng dao chém nhiều phát vào đầu của bà T gây thương tích 64%. Tuy nhiên, hậu quả chết người chưa xảy ra do ngoài ý muốn của bị cáo, nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, hành vi phạm tội của bị cáo còn ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, gây mất tâm lý hoang mang lo lắng cho người dân. Khi phạm tội bị cáo có 03 tiền án chưađược xóa án tích, chứng tỏ bị cáo không chịu khó tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần có mức án nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong thời gian đủ dài, đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa người phạm tội và giáo dục chung.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về trong quá trình điều trabị cáo có khai báo về mục đích đến nhà bà T để trộm tài sản, nhưng chưa lấy được tài sản và không có tài liệu nào ngoài lời khai của bị cáo để chứng minh về hành vi lấy tài sản, nên không truy tố xét xử bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Cướp tài sản” là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa, bà Trần Thị T yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Q phải đền bù số tiền: 101.749.000 đ. Bị cáo Nguyễn Văn Q đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bà T. Xét nội dung thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này và cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải bồi thường cho bà Trần Thị T số tiền 101.749.000 đồng là đúng pháp luật.
[7] Về vật chứng: Một con dao là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Một cái áo và một cái quần không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quyđịnh của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều15 Bộ luật hình sự 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Giết người”.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23/6/2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, Điều 584 Bộ luật dân sự 2015.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải bồi thường cho bà Trần Thị T số tiền 101.749.000 (Một trăm linh một triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn) đồng.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tốtụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao, 01 chiếc áo và 01 chiếc quần.
Đặc điểm tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An ngày 17/10/2018.
4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.080.745 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 ,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 162/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội giết người
Số hiệu: | 162/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về