Bản án 16/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 đối với:

- Bị cáo: Trần Ngọc T, sinh ngày 03/4/1991 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C, sinh năm 1964 và bà Trần Thị T, sinh năm 1964; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

+ Ông Nguyễn Q, sinh năm 1956 và bà Nguyễn T, sinh năm 1953; cùng địa chỉ: tổ dân phố H, thị trấn H, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Ủy quyền cho anh Hồ Đ tham gia tố tụng, văn bản ủy quyền ngày 05/01/2021.

+ Anh Hồ Đ, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

- Bị đơn dân sự: Công ty H, địa chỉ: Lô B, khu tái định cư B, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Q – Chức vụ: Tổng giám đốc. Ủy quyền cho anh Nguyễn T, sinh năm 1988; địa chỉ: tổ 39, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt; văn bản ủy quyền ngày 27/12/2020.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Công ty tài chính C, địa chỉ: Tầng 1, tháp CEO, lô HH2-1, đường P, phường M, quận N, thành phố Hà Nội.

Ủy quyền cho Công ty H tham gia tố tụng, văn bản ủy quyền ngày 27/12/2020.

+ Anh Nguyễn Đ, sinh năm 1957 và chị Hồ L, sinh năm 1970; cùng địa chỉ: Thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; đều vắng mặt.

+ Anh Hồ Đ, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

+ Cháu Hồ N, sinh ngày 05/6/2010.

+ Cháu Hồ B, sinh ngày 23/01/2012.

Người đại diện hợp pháp cho cháu N và cháu B: Anh Hồ Đ, sinh năm 1978;

địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Trương D, sinh năm 1995, địa chỉ: H75/06K448, đường T, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Trần Q, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc T có giấy phép lái xe ô tô hạng C số 310164868380, có giá trị đến ngày 15/9/2021. Khoảng 12 giờ ngày 26/12/2020, Trần Ngọc T và Trương D (đều là nhân viên lái xe của Công ty H) điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29LD-305.55 đi từ thành phố P, tỉnh Bình Thuận ra thành phố Đà Nẵng để giao hàng chuyển phát nhanh. Lúc đi, T và D thay nhau điều khiển xe.

Khi xe ô tô đi đến địa phận huyện N, tỉnh Quảng Nam, T thay D điều khiển xe. Đến khoảng 04 giờ 30 phút ngày 27/12/2020, Trần Ngọc T điều khiển xe đi đến khu vực Thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. T điều khiển xe chạy ở phần đường bên phải Quốc lộ 1A hướng Tam Kỳ - Đà Nẵng (chạy sát giải phân cách cứng), tốc độ khoảng 90km/h. Khi xe ô tô chạy cách ngã ba DL khoảng 50 mét thì T phát hiện phía trước có một xe ô tô hiệu Ford màu đen (không rõ biển số) đang chạy hướng Đà Nẵng - Tam Kỳ, quay đầu xe tại ngã ba DL, đi qua phần đường hướng Tam Kỳ - Đà Nẵng.

Trần Ngọc T sợ xe ô tô do mình điều khiển tông vào xe Ford nên đạp thắng xe hai lần (còn gọi là thắng nhắp), khi khoảng cách giữa hai xe còn khoảng 10 mét thì T đạp giữ thắng làm xe ô tô 29LD–305.55 mất lái, trượt dài tới phía trước và lao qua phần đường hướng Đà Nẵng - Tam Kỳ rồi tông vào xe mô tô biển kiểm soát 92H1-409.89 do chị Nguyễn Thị V đang điều khiển ở phần đường bên phải hướng Đà Nẵng - Tam Kỳ gây ra tai nạn.

Sau tai nạn, chị V và xe mô tô 92H1–409.89 ngã trước đầu xe ô tô, xe ô tô tông vào nhà anh Nguyễn Đ rồi dừng lại. Hậu quả chị V chết trên đường đi cấp cứu, hai xe hư hỏng nặng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: Chị Nguyễn Thị V chết do sốc chấn thương, sốc mất máu cấp, suy hô hấp – tuần hoàn cấp không hồi phục, hậu quả của đa chấn thương (chấn thương sọ não, gãy 1/3 dưới xương đùi trái và 1/3 trên cẳng chân trái).

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 19/01/2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Quế Sơn kết luận: Giá trị thiệt hại phần hư hỏng xe mô tô biển kiểm soát 92H1–409.89 là 3.492.000 đồng (ba triệu bốn trăm chín mươi hai nghìn đồng); giá trị thiệt hại phần hư hỏng của xe ô tô 29LD–305.55 là 15.570.000 đồng (mười lăm triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

01 xe mô tô biển kiểm soát 92H1-409.89; 01 xe ô tô biển kiểm soát 29LD– 305.55; 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 thẻ nhớ; 01 thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô 29LD-305.55; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Ngọc T; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên Trần Ngọc T.

Về trách nhiệm dân sự:

- Sau khi tai nạn xảy ra, anh Hồ Đ (chồng của chị V) đã thống kê chi phí mai táng, sửa chữa xe mô tô và cấp dưỡng nuôi con với số tiền 407.000.000 đồng (bốn trăm lẻ bảy triệu đồng). Trần Ngọc T và đại diện chủ xe ô tô đã đến thăm hỏi và bồi thường số tiền 230.000.000 đồng (hai trăm ba mươi triệu đồng). Anh Đ không yêu cầu gì thêm và xin bãi nại cho T.

- Đối với thiệt hại của xe ô tô biển kiểm soát 29LD-305.55, đại diện chủ xe (Công ty H) xin nhận lại xe và không có yêu cầu gì về thiệt hại của xe.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSQS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Trần Ngọc T mức án từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng, kể từ ngày tuyên án. Về vật chứng vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên Trần Ngọc T. Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 92H1-409.89 đứng tên Hồ Đ, 01 xe ô tô biển kiểm soát 29LD– 305.55; 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 thẻ nhớ; 01 thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô 29LD-305.55; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Ngọc T, Công an huyện Quế Sơn đã trả cho chủ sở hữu là phù hợp quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Đại diện bị đơn dân sự không trình bày nội dung gì khác so với lời khai có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại, một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến vắng mặt. Tuy nhiên, không ai có yêu cầu triệu tập những người này phải có mặt tại phiên tòa hoặc đề nghị hoãn phiên tòa. Căn cứ vào các Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy những người này đã có lời khai được lưu giữ trong hồ sơ vụ án, nếu cần thiết thì công bố lời khai của họ nên có thể tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tội danh: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đối chiếu với Biên bản, sơ đồ khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y, kết luận định giá tài sản, lời khai của những người tham gia tố tụng cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 27/12/2020, bị cáo Trần Ngọc T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29LD-305.55 tham gia giao thông trên Quốc lộ 1A. Khi điều khiển xe ô tô đi đến ngã ba DL thuộc Thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam, bị cáo phát hiện xe ô tô phía trước đang quay đầu nên đạp mạnh thắng làm xe ô tô bị cáo điều khiển bị mất tay lái, trượt dài tới phía trước, lao qua phần đường ngược chiều tông vào xe mô tô biển kiểm soát 92H1 - 409.89 do chị Nguyễn Thị V đang điều khiển gây ra tai nạn. Hậu quả vụ tai nạn làm chị Nguyễn Thị V chết trên đường đi cấp cứu, xe ô tô và xe mô tô bị hư hỏng nặng.

Như vậy có căn cứ để khẳng định, bị cáo Trần Ngọc T có giấy phép lái xe ô tô hạng C, đủ điều kiện điều khiển xe ô tô tải có tải trọng 2.250 kg nhưng khi tham gia giao thông bị cáo điều khiển xe chạy với tốc độ cao, không đảm bảo khoảng cách an toàn nên khi gặp chướng ngại vật bị cáo không xử lý được tình huống, thắng gấp làm xe ô tô trượt chạy sang phần đường ngược chiều là vi phạm quy định tại các Điều 9, Điều 12 Luật giao thông đường bộ 2008 (người tham gia giao thông đường bộ phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường quy định).

Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, cáo trạng số 14/CT-VKSQS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, được cấp giấy phép lái xe ô tô theo quy định. Do đó, bản thân bị cáo phải ý thức được hành vi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ. Nhưng do chủ quan, bị cáo đã điều khiển xe chạy với tốc độ cao nên gặp chướng ngại vật bị cáo không xử lý được tình huống gây ra vụ tai nạn giao thông. Hậu quả làm chị Nguyễn Thị V chết trên đường đi cấp cứu, thiệt hại về tài sản hơn 19.000.000 đồng. Lỗi trong vụ tai nạn giao thông hoàn toàn thuộc về bị cáo.

Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại nghiêm trọng, không những xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người khác mà còn vi phạm nguyên tắc hoạt động giao thông đường bộ. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới tương xứng với hành vi, hậu quả của tội phạm mà bị cáo đã gây ra.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo cùng với Công ty H đã bồi thường toàn bộ thiệt hại. Đại diện gia đình bị hại có đơn xin bãi nại. Bị cáo có ông nội là liệt sĩ. Bị cáo tham gia dân quân tự vệ tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng nên đảm bảo các điều kiện cho người bị xử phạt tù hưởng án treo theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho hưởng án treo đối với bị cáo là thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta.

[6] Về vật chứng vụ án, hình phạt bổ sung:

- Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên Trần Ngọc T là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên trao trả cho bị cáo.

- Đối với 01 xe ô tô biển kiển soát 29LD–305.55; 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 thẻ nhớ và 01 thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô biển kiểm soát 29LD – 305.55, 01 xe mô tô biển kiểm soát 92H1–409.89, 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Ngọc T, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn đã trả lại cho các chủ sở hữu là phù hợp.

- Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, hành vi phạm tội của bị cáo có thể áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề trong thời hạn nhất định nhưng xét thấy bị cáo phạm tội do lỗi vô ý nên không áp dụng.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, giữa bị cáo và Công ty H với đại diện gia đình bị hại anh Hồ Đ đã giải quyết bồi thường xong toàn bộ thiệt hại. Đại diện gia đình bị hại đã nhận tổng số tiền là 230.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[8] Đối với những vấn đề liên quan khác trong vụ án:

- Đối với thiệt hại bờ tường gạch và cong vênh cửa sắt nhà anh Nguyễn Đ và chị Hồ L do xe ô tô bị cáo điều khiển gây ra nhưng không đáng kể nên anh Đ, chị L không yêu cầu giải quyết.

- Đối với thiệt hại xe ô tô biển kiểm soát 29LD–305.55 thuộc sở hữu của Công ty tài chính C nhưng cho Công ty H thuê. Theo hợp đồng cho thuê tài chính lập ngày 20/8/2019 giữa các bên thì bên thuê chấp nhận và gánh chịu mọi rủi ro về tổn thất đối với tài sản thuê (Điều 16). Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Công ty H – anh Nguyễn T không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

- Đối với thiệt hại do hư hỏng xe mô tô biển kiểm soát 92H1-409.89 thuộc quyền sở hữu của anh Hồ Đ, anh Đ đã nhận bồi thường và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 09/6/2021).

Giao bị cáo Trần Ngọc T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng vụ án:

Trả cho bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, vật chứng này hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án và được chuyển theo bản án.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Trần Ngọc T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09-6-2021). Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về