Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 480/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Út E, sinh năm 1981 (có mặt).

2. Bị đơn: Chị Võ Thị Hồng D, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Cùng cư trú tại: Ấp Đ1, xã N, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18 tháng 8 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Nguyễn Văn Út E trình bày:

- Về hôn nhân: Trên cơ sở quen biết, được sự đồng ý của gia đình, anh và chị Võ Thị Hồng D tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 21/3/2017 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không điều hòa được làm cho vợ chồng thường xuyên cự cải, dẫn đến mất hạnh. Nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay không trở về đoàn tụ. Sau thời gian sống ly thân, nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh yêu cầu được ly hôn với chị D.

- Về con chung, nuôi con và cấp dưỡng cho con: Anh và chị D có với nhau 01 người con chung tên Nguyễn Đông Đ2, sinh ngày 04/8/2017 hiện do anh đang nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ2, không yêu cầu chị D cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Không có, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm:

Chị Võ Thị Hồng D đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng đều vắng mặt tại các phiên họp, không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh E và không giao nộp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị D đã được triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xác định đây là yêu cầu về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình.

[2] Về thủ tục xét xử: Tại phiên tòa sơ thẩm, chị D đã được triệu tập xét xử hợp lệ lần hai vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng ho c trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị D theo thủ tục chung.

- Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Anh E và chị D là vợ chồng hợp pháp, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Trong thời gian chung sống, xuất phát từ nguyên nhân vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không điều hòa được dẫn đến cự cải, mất hạnh phúc. Anh E và chị D có thời gian sống ly thân từ năm 2019 đến nay không trở về đoàn tụ. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh E xác định không còn tình cảm vợ chồng, không muốn ý tiếp tục chung sống với chị D. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị D không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của anh E. Căn cứ vào lời trình bày của anh E và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết luận đời sống chung giữa anh E và chị D không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết cho ly hôn giữa anh E và chị D.

[2] Về con chung, nuôi con và cấp dưỡng cho con: Anh E và chị D có với nhau 01 người con chung tên Nguyễn Đông Đ2, sinh ngày 04/8/2017 hiện do anh E nuôi dưỡng từ năm 2019 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị D không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu nuôi con của anh E. Để ổn định môi trường sống, đồng thời đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho trẻ. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết giao cháu Đ2 cho anh E được trực tiếp nuôi dưỡng. Xét anh E không yêu cầu chị D cấp dưỡng cho cháu Đ2. Căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết ghi nhận ý kiến của anh E không yêu cầu chị D cấp dưỡng cho con; chị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Do không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án, Tòa án giải quyết anh E phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000 đồng, được khấu trừ vào trong số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Út E và chị Võ Thị Hồng D.

2. Về con chung, nuôi con và cấp dưỡng cho con:

2.1. Giao cháu Nguyễn Đông Đ1, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2017 cho anh Nguyễn Văn Út E được trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận ý kiến của anh Nguyễn Văn Út E không yêu cầu chị Võ Thị Hồng D cấp dưỡng cho con.

2.3. Chị Võ Thị Hồng D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn Văn Út E phải nộp án phí ly hôn số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Số tiền này được khấu trừ xong vào trong số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí anh E đã nộp theo biên lai thu số No 0010567 ngày 14 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Vụ án được xét xử công khai. Có mặt anh Nguyễn Văn Út E, vắng mặt chị Võ Thị Hồng D. Báo cho anh E có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Riêng chị D vắng mặt thì thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về