Bản án 16/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2020/HS-ST ngày 27 tháng 02 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020; Thông báo tạm dừng phiên tòa số 04/TB-TA ngày 12/3/2020 và thông báo số 11/TB-TA ngày 01/4/2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Hồ Vĩnh T; Giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/3/1985, tại tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Xóm 01 Quyết Th\,xã A huyện Q, tỉnh Ng; Nghề nghiệp: LĐPT; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 30/8/2019, bị Công an phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính tại Quyết định số 66/QĐ-XPHC về hành vi trộm cắp tài sản; Con ông Hồ Vĩnh Th Và bà Hồ Thị M ;Gia đình có năm anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Trần Thị Th; Có 02 con (con lớn nhất 04 tuổi, con nhỏ nhất 11 tháng tuổi).

Bị cáo bị bắt 31/12/2019 hiện đang bị tạm giam tại trại giam Hòa Sơn. Có mặt phiên tòa.

Người bị hại: Ông Đặng Hữu Th - sinh năm 1970; địa chỉ: Q, phường thị xã Đ, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 30/12/2019, Hồ Vĩnh T đi xe ôm chở khách ngang qua công trình xây dựng tại ngã tư đường Vũ Mộng Nguyên - Khuê Mỹ Đông 10, thuộc tổ 07 phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thì phát hiện có nhiều sắt thép nên nảy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 02h ngày 31/12/2019, T điều khiển xe mô tô BKS 47K6-8661 đến lại công trình, quan sát thấy bảo vệ đang ngủ cách xa lán trại. Sau đó, T dựng xe bên đường vào khiêng 70 thanh sắt (đã cắt rời) của anh Đặng Hữu Th, bỏ lên yên xe chở đi đến đoạn đường Lê Văn Hiến thì bị Tổ tuần tra 8394 Công an phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nghi ngờ, kiểm tra hành chính và đưa về trụ sở Công an phường làm việc. Tại đây, Hồ Vĩnh T khai nhận hành vi trộm cắp tài sản.

Tang vật thu giữ của Hồ Vĩnh T: 60 thanh sắt gồm (BL: 10):

+ 07 đoạn thanh sắt Hòa Phát phi 25, trọng lượng 34kg;

+ 05 đoạn thanh sắt Hòa phát phi 14, trọng lượng 09kg;

+ 37 đoạn thanh sắt Hòa Phát phi 10, trọng lượng 36 kg;

+ 21 đoạn thanh sắt Hòa phát phi 10 đã uốn thành khung hình chữ nhật, trọng lượng 24kg;

(Tổng khối lượng các thanh sắt tạm giữ: 103kg);

+ 01 xe mô tô Fusin BKS 47K6-8661.

* Tại Kết luận định giá số 01/KLĐG-HĐĐGTS ngày 01/01/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng kết luận: Tài sản bị chiếm đoạt (07 đoạn thanh sắt Hòa Phát phi 25, trọng lượng 34kg; 05 đoạn thanh sắt Hòa phát phi 14, trọng lượng 09kg; 37 đoạn thanh sắt Hòa Phát phi 10, trọng lượng 36 kg; 21 đoạn thanh sắt Hòa phát phi 10 đã uốn thành khung hình chữ nhật, trọng lượng 24kg) tại thời điểm tháng 12/2019 có trị giá 1.154.750 đồng. Qua điều tra, Hồ Vĩnh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

* Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKS-TPĐN ngày 26/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Hồ Vĩnh T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Hồ Vĩnh T về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo Hồ Vĩnh T phạm tội ‘Trộm cắp tài sản’ Áp dụng: điểm a Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm s, h, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Hồ Vĩnh T từ 6 đến 9 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2019.

*Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an Q. Ngũ Hành Sơn đã trả 60 thanh sắt cho chủ sở hữu là anh Đặng Hữu Th là đúng quy định nên không đề cập đến.

Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước của Hồ Vĩnh T 01 xe mô tô nhãn hiệu Fusin BKS 47K6-8661, số máy FS150FMG003368, số khung PCG00127013368 (vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn,thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2020).

* Về trách nhiệm dân sự: Anh Đặng Hữu Th sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu về dân sự nên không đề cập đến.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Hồ Vĩnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định như sau: Khoảng 02 giờ ngày 31/12/2019, tại công trình đang xây dựng ngã tư đường Vũ Mộng Nguyên - Khuê Mỹ Đông 10, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Hồ Vĩnh T (đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 30/8/2019) có hành vi trộm cắp 70 thanh sắt của anh Đặng Hữu Th. Tổng giá trị tài sản mà Hồ Vĩnh T trộm cắp là 1.154.750 đồng.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Hồ Vĩnh T về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Vĩnh T thì thấy hết sức liều lĩnh và táo bạo bị cáo lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu đã lén lút lấy trộm 60 thanh sắt với tài sản trị giá 1.154,750đ để bán lấy tiền nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Hành vi thực hiện trộm cắp tài sản của bị cáo lần này có giá trị dưới 2.000.000đ nhưng trước đây bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản mà chưa được xoá tiền sự này, do đó đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất vụ án thì thấy, bị cáo còn trẻ có sức khỏe tự tìm kiếm công việc lương thiện để nuôi sống bản thân cũng như góp phần có ích cho xã hội, tuy nhiên do lối sống buông thả, không tu dưỡng bản thân, lười lao động, muốn dễ dàng có tiền tiêu xài cá nhân nên đã thực hiện trộm cắp, mặc dù bị cáo nhận thức rõ hành vi này pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn có ý vi phạm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Do vậy cần xử phạt với bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân xấu ngày 30/8/2019, bị Công an phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn xử phạt hành chính về hành vi “trộm cắp tài sản”. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thấy bị cáo đã khai báo thành khẩn, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và phạm tội gây thiệt hại không lớn, người bị hại vắng mặt nhưng thể hiện có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (BL16) nên cần áp dụng điểm s, h, i khoản 1, 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an Q. Ngũ Hành Sơn đã trả 60 thanh sắt cho chủ sở hữu là anh Đặng Hữu Th là đúng quy định nên không đề cập đến.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Fusin BKS 47K6-8661, số máy FS150FMG003368, số khung PCG00127013368 là xe Hồ Vĩnh T mua lại của ông Hoàng Văn Phú được anh Phú xác nhận tuy nhiên, bị cáo chưa thực hiện việc sang tên đổi chủ và bị cáo đã sử dụng xe này vào việc phạm tội, do đó cần tịch thu sung công quỹ nhà nước là phù hợp điều Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. ( vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2020).

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự 200.000đ.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Hồ Vĩnh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Căn cứ Điểm a khoản 1Điều 173 BLHS; Điểm s, h, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Vĩnh T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2019.

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên: Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Fusin BKS 47K6-8661, số máy FS150FMG003368, số khung PCG00127013368 là xe của Hồ Vĩnh T (Tân mua lại của ông Hoàng Văn Phú và chưa thực hiện điều chỉnh việc sang tên đổi chủ). Xe mô tô hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2020.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về