TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC - TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2020/TLST - HS ngày 10 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST - HS ngày 12/8/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Văn Ch - Sinh năm: 1994 Nơi ĐKHKTT: Khu 4, xã M, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú hiện nay: Thôn Đ, xã M, huyện V, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N1; con ông Bùi Văn H – Sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1970; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; có vợ là Hà Thị Th - sinh năm 1994; bị cáo có 01 con sinh năm 2019; tiền sự: không; Tiền án: tháng 5/2019 phạm tội “Đánh bạc” bị tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) tại bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019 ngày 20/8/2019. Bị cáo đã chấp hành xong vào tháng 10/2019 chưa được xóa án tích, đến ngày 24/4/2020 lại phạm tội “đánh bạc”.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 33/2020/LCĐKNCT ngày 10/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnhThA Hóa; có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
* Người làm chứng:
1. Ông Võ Ngọc A - sinh năm 1975 Trú quán: Thôn 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thanh Hóa.
2. Ông Nguyễn Văn N – Sinh năm 1965 Địa chỉ: Thôn Th, Xã N, huyện V, tỉnh Thanh Hóa
3. Ông Nguyễn Văn N1 – Sinh năm 1972 Trú quán: Thôn Y, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.
4. Ông Nguyễn Xuân M – Sinh năm 1957 Trú quán: Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Thanh Hóa (Đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ ngày 24/04/2020 Võ Ngọc A - SN: 1975 trú tại thôn 5, thị trấn V, huyện V, Nguyễn Văn N - SN: 1965 trú tại thôn T, xã N, huyện Vĩnh Lộc đến nhà máy gạch Lam Sơn ở thôn N, xã H, huyện V để mua gạch bán cho khách. Trong lúc chờ công nhân bốc gạch lên xe Võ Ngọc A và Nguyễn Văn N vào căng tin nhà máy gạch do Nguyễn Văn N1 - SN: 1972 trú tại thôn Y, xã Đ, huyện Y quản lý để uống nước. Tại đây, A, N, N1 đã rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh “ liêng” bằng bộ bài tú lơ khơ 52 cây, những người tham gia chơi đặt cược 10.000đ (mười ngàn đồng), tùy vào điểm số những người chơi có quyền đặt cược (tố) tối đa lên đến 50.000đ (năm mươi ngàn đồng), sau khi đặt cược xong ai có điểm lớn nhất thì sẽ ăn toàn bộ số tiền đặt cược. Được khoảng 15 phút sau thì Bùi Văn Ch - SN: 1994 trú tại khu 7, xã Minh C, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Nguyễn Xuân M - sn: 1991 trú tại thôn N, xã H, huyện V đến và xin tham gia chơi cùng. Quá trình đánh bạc Võ Ngọc A sử dụng số tiền 680.000 đ (sáu trăm tám mươi ngàn đồng), Nguyễn Văn N sử dụng số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), Nguyễn Văn N1 sử dụng số tiền 480.000đ (bốn trăm tám mươi ngàn đồng), Bùi Văn Ch sử dụng số tiền 380.000đ (ba trăm tám mươi ngàn đồng), Nguyễn Xuân M bỏ ra số tiền 480.000đ (bốn trăm tám mươi ngàn đồng). Đến 16 giờ cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V đã phát hiện, lập biên bản xử lý theo quy định của pháp luật.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bồ bài tú lơ khơ 52 cây và số tiền 2.320.000đ (hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng) tiền do Ngân hàng nhà nước Việt N1 phát hành.
Quá trình điều tra đã xác định Bùi Văn Ch, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Văn N, Võ Ngọc A đó có hành vi đánh bạc với số tiền là 2.320.000đ chưa đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc”.
Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Vĩnh Lộc đó ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Xuân M, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Văn N, Võ Ngọc A là có căn cứ Đối với Bùi Văn Ch hiên đang chấp hành bản án số:10/2019/HS - ST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc về tội “đánh bạc” bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc xử phạt 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), tính đến ngày phạm tội mới chưa được xóa án tích nên hành vi trên của Bùi Văn Ch đã cấu thành tội “đánh bạc” được quy định tại khoản 1, điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại bản cáo trạng số 15/ CT - VKSVL ngày 10/7/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Bùi Văn Ch về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ Luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo. Kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung Bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo: Bùi Văn Ch từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng vụ án, về án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phần trA luận các bị cáo không có ý kiến gì. Lời nói sau cùng các bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Lộc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng, cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 15 giờ ngày 24/4/2020 Bùi Văn Ch, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Văn N, Võ Ngọc A đã hành vi đánh bạc với số tiền 2.320.000đ (hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng). Các đối tượng M, N1, N, Ngọc A do chưa đủ định lượng không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không đủ căn cứ xử lý hình sự. Riêng Bùi Văn Ch phạm tội khi chưa được xóa án tích. Nên hành vi của Bùi Văn Ch đã phạm vào tội “Đánh bạc” được qui định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét về tính chất, mức độ hành vi, hậu quả thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạn đến trật tự công cộng, trật tự an toàn xã hội, làm tổn hại đến kinh tế gia đình, là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Tuy nhiên, số tiền bị cáo dùng đánh bạc trong vụ này là 380.000đ (ba trăm tám mươi ngàn đồng) số tiền không lớn. Hội đồng xét xử sẽ đánh giá tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi mà bị cáo gây ra.
[3] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Bùi Văn Ch đã chịu tình tiết định tội cho hành vi đánh bạc lần này nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năm hối cải với lỗi lầm đã phạm; bị cáo có thời gian tham gia quân đội nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 để xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật. Số tiền phạm tội không lớn 2.320.000 đồng, chưa bằng mức khởi điểm của tội dA này, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên HĐXX cần xử phạt bị cáo bằng mức thấp nhất của khung hình phạt và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề tự do, công việc và thu nhập không ổn định, đang nuôi con nhỏ mới hơn 01 tuổi ( sinh năm 2019), không có tài sản hoặc tài sản không đáng kể, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo là phù hợp.
[5] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Vĩnh Lộc đã thu giữ được số tiền là 2.320.000đ (hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng) đây là số tiền các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là phù hợp. Đối với bộ bài Tú lơ khơ các bị cáo dùng để đánh bạc không có giá trị sử dụng nghĩ nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Ch phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: bị cáo: Bùi Văn Ch 06 ( sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng khoản 3 Điều 321 BLHS năm 2015 làm hình phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Văn Ch.
Về phần xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Khoản 1, điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây thu được trong vụ án - Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.320.000đ (hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng).
Vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/8/2020 và số tiền 2.320.000đ (hai triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng) hiện đã được nộp vào tài khoản tạm thu,tạm giữ số tài khoản tạm thu, tạm giữ số 3949.0.1054809 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc ngày 21/8/2020.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Điều 6; khoản 1 Điều 21 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Bùi Văn Ch mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo tại phiên tòa. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 16/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về