Bản án 16/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG HÒA, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 16/2020/HSST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2020/HSST ngày 13/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/HSST-QĐTA ngày 08/5/2020 đối với bị cáo:

ng Ngọc T - sinh 19/6/1994;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm C xã K huyện T tỉnh Cao Bằng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ học vấn: 10/12; con ông: Nông V (sinh năm 1967); con bà:

Đàm Thị T (sinh năm 1965); Vợ, con: chưa có; Bị cáo là con út trong gia đình có 02 anh em.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/01/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lý Thị Nhung - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 05/01/2020 Công an xã Hồng Định và ông Đinh Ích D (quần chúng nhân dân) tuần tra về an ninh trật tự tại địa bàn xóm Lũng Mặc xã Hồng Định huyện Quảng Uyên thì phát hiện đối tượng Nông Ngọc T cùng xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra người và xe, tổ công tác phát hiện trong cốp xe có 01 gói nilon màu hồng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng có chứa chất bộ màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và bàn giao cho Công an huyện Quảng Uyên điều tra xử lý.

Tại cơ quan điều tra, Nông Ngọc T khai nhận về nguồn gốc số ma túy bị bắt quả tang ngày 05/01/2020 như sau: Khoảng 14 giờ ngày 05/01/2020 Nông Ngọc T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 từ nhà ra khu vực bến xe cũ ở phường Sông Bằng thành phố Cao Bằng để tìm mua ma túy với người đàn ông không quen biết 200.000đ được 01 tép ma túy. Sau khi mua được ma túy, Triều cất gói ma túy vào cốp xe và đi về, khi đến xóm Lũng Mặc xã Hồng Định huyện Quảng Uyên thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ngày 06/01/2020, trước sự chứng kiến của Nông Ngọc T, Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Uyên đã phối hợp mở niêm phong tang vật để cân khối lượng và niêm phong mẫu gửi giám định đối với số chất bột màu trắng ngà (nghi là ma túy) thu giữ của Nông Ngọc T. Kết quả cân số chất bột màu trắng ngà có khối lượng là 0,124g (không phẩy một hai bốn gam).

Tại bản Kết luận giám định số 36/GĐMT ngày 15/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Cao Bằng, kết luận về số chất bột màu trắng ngà (nghi là heroine) đã thu giữ được của Nông Ngọc T là "Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe mô tô 11B1-112.99 đăng ký mang tên Nông Ngọc T đã được bị cáo dùng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ngoài ra, do không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho Nông Ngọc T, nên không có căn cứ để mở rộng điều tra, xử lý.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ, kết luận giám định mà cơ quan điều tra đã thu thập được.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội đối với bị cáo Nông Ngọc T về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo như Cáo trạng số 19/CT-VKSQH ngày 13/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Hòa đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Nông Ngọc T từ 12 đến 24 tháng tù và xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản tự khai, biên bản hỏi cung, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở được thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Do nghiện ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 05/01/2020 Nông Ngọc T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 đến khu vực bến xe cũ ở phường Sông Bằng thành phố Cao Bằng để tìm mua 01 tép ma túy giá 200.000đ với người đàn ông không quen. Sau khi mua được ma túy, T cất gói ma túy vào cốp xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 rồi đi về, khi đến xóm Lũng Mặc xã Hồng Định huyện Quảng Uyên thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang tàng trữ trái phép 0,124g (không phẩy một hai bốn gam) chất ma túy. Kết luận giám định là ma túy, loại heroine. Do đó hành vi của bị cáo Nông Ngọc T đã cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Cáo trạng số 19/CT-VKSQH ngày 13/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Hòa đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét tính chất, vai trò, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo Nông Ngọc T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy, bị cáo đã mua ma túy để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, điều đó góp phần làm gia tăng các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trong khu vực, bị quần chúng nhân dân lên án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của nhà nước về chất ma túy, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Vậy khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

[4] Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội và đề nghị áp dụng các điều luật đối với bị cáo và xử lý vật chứng, án phí là có căn cứ pháp luật.

[5] Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với Cáo trạng và bản luận tội, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất của khung hình phạt do bị cáo phạm tội lần đầu, lượng ma túy ít, mục đích tàng trữ là để sử dụng, có quá trình tham gia quân đội. Còn chiếc xe máy của bị cáo có nguồn gốc là tiền do bố mẹ cho bị cáo mua và đăng ký quyền sở hữu của bị cáo, bố bẹ không biết bị cáo sẽ dùng để đi mua và cất dấu ma túy vào cốp xe, do đó đề nghị xem xét trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 cho gia đình bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát bác quan điểm về việc trả lại chiếc xe cho gia đình bị cáo vì bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, năng lực trách nhiệm dân sự, nhận thức được quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đăng ký quyền sở hữu mang tên bị cáo Nông Ngọc T đối với nhà nước, do đó đề nghị tịch thu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11B1-.99 do bị cáo sử dụng đi mua ma túy và cất dấu ma túy trong cốp xe.

[6] Phần nói lời sau cùng: bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa lỗi lầm, sớm trở về với gia đình.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi “vật chứng chất bột màu trắng vụ Nông Ngọc T sinh năm 1994, xảy ra ngày 05/01/2020 tại xóm Lũng Mặc xã Hồng Định huyện Quảng Uyên, Cao Bằng. Đây là vật chứng của vụ án và là chất ma túy, nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô 11B1-.99 đăng ký mang tên Nông Ngọc T đã được bị cáo dùng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, năng lực trách nhiệm dân sự, nhận thức được quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đăng ký quyền sở hữu, nhưng cố tình dùng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy, vì vậy sẽ tịch thu để phát mại sung ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Tuyên bố bị cáo Nông Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: bị cáo Nông Ngọc T 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/01/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi “vật chứng chất bột màu trắng vụ Nông Ngọc T sinh năm 1994, xảy ra ngày 05/01/2020 tại xóm Lũng Mặc xã Hồng Định huyện Quảng Uyên, Cao Bằng. - Tịch thu để phát mại sung ngân sách nhà nước chiếc xe mô tô 11B1- 112.99 kèm đăng ký mang tên Nông Ngọc T.

Số vật chứng hiện đang được tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Hòa.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nông Ngọc T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

"Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Uyên (cũ) - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về