Bản án 16/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST- HS ngày 14 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Vi Văn Đ, sinh năm 1987 tại huyện S, tỉnh Bắc Giang. Nơi cư trú: Thôn C, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn D và bà Trần Thị C; có vợ là Hồ Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ- XPHC ngày 13/02/2020, Công an thị trấn, huyện S xử phạt Vi Văn Đ 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; nhân thân: Tại Bản án số 26/2006/HSST ngày 08/6/2006 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn xử phạt Vi Văn Đ 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 06/2008/HSST ngày 20/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động xử phạt Vi Văn Đ 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 01/2011/HSST ngày 01/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động xử phạt Vi Văn Đ 02 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Vi Văn Đ đã chấp hành xong các bản án nêu trên và đương nhiên được xóa án tích; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện tại bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Bị hại: Nguyễn Thị B, sinh năm 1965; trú tại: Khu 1, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt.

* Người làm chứng: Vi Thái H, sinh năm 1989; trú tại: Thôn T, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Khoảng 22 giờ ngày 13/02/2020, Vi Thái H đi xe mô tô biển số 98L9- 5502 đến nhà Vi Văn Đ chơi; khoảng 02 giờ ngày 14/02/2020 Đ nảy sinh ý định mượn xe mô tô của H đi xem có nhà nào để tài sản sơ hở sẽ trộm cắp, Đ hỏi mượn xe mô tô của H đi ra đây một tý chứ không nói cho H biết về ý định của mình. Khi đi Đ đem theo một chiếc đèn pin (loại đèn đội đầu), Đ điều khiển xe mô tô đi đến khu vực ngã tư thị trấn A, huyện S thì dừng xe lại để quan sát, phát hiện thấy ở phía trước cửa hàng bán hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị B ở Khu 1, thị trấn A, huyện S có một kệ sạp hàng trùm bạt kín; Đ dựng xe mô tô ở phía ngoài, cầm theo đèn pin đi bộ đến kệ hàng, Đ dùng đèn pin soi, dùng tay nhấc tấm bạt phủ trên sạp hàng ra thì thấy bên trong có nhiều loại hoa quả; Đ lấy túi ni lon ở trong sạp hàng rồi lấy các chùm nho xanh miền nam cho vào túi ni lon, sau đó Đ kéo bạt đậy sạp hàng lại, đem túi nho ra xe mô tô rồi đi về nhà. Đ khai mục đích trộm cắp số nho trên để ăn.

2. Cùng ngày 14/02/2020, bà Nguyễn Thị B có đơn trình báo về việc bị kẻ gian trộm cắp 10Kg nho xanh miền nam tại sạp hàng tạp hóa. Sau khi điều tra xác minh, lực lượng công an đã xác định Vi Văn Đ là người trộm cắp tài sản tại sạp hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị B, Đ tự nguyện giao nộp toàn bộ số nho xanh miền nam có khối lượng là 10Kg đã trộm cắp tại sạp hàng của bà B. Sau khi xác định khối lượng và lập biên bản thu giữ, lực lượng công an đã trả lại cho bà Nguyễn Thị B 10 Kg nho xanh miền nam mà Vi Văn Đ đã trộm cắp.

3. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 16/3/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Động kết luận: 10 Kg nho xanh miền nam tại thời điểm bị trộm cắp trị giá là 770.000đ (Bảy trăm, bảy mươi nghìn đồng chẵn).

4. Tại bản Cáo trạng số 15 /CT-VKS-SĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động truy tố bị cáo Vi Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

5. Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phát biều luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vi Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vi Văn Đ từ 06 - 09 tháng tù; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu của Vi Văn Đ 01 chiếc đèn pin để tiêu hủy; miễn phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Bị cáo Vi Văn Đ trình bày: Bị cáo thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Vi Văn Đ thành khẩn khai báo, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 14/02/2020, bị cáo Vi Văn Đ đi đến khu vực ngã tư thị trấn A, huyện S tỉnh Bắc Giang với mục đích xem có ai để tài sản sơ hở sẽ trộm cắp; bị cáo phát hiện thấy tại sạp hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị B có phủ bạt kín, quan sát xung quanh không thấy có người nên bị cáo tiến đến cậy mở bạt lấy được 10Kg nho xanh miền nam trị giá 770.000đ (Bảy trăm, bảy mươi nghìn đồng chẵn), theo bị cáo khai mục đích bị cáo trộm cắp nho dùng để ăn. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp vào ban đêm, thời gian đó mọi người đều ngủ say nên có sơ hở trong việc quản lý, bảo vệ tài sản; lợi dụng điều kiện đó bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp, chiếm đoạt tài sản của người khác; bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác; mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng 01 ngày trước đó bị cáo đã bị xử phạt hành chính về chính hành vi trộm cắp tài sản nên hành vi trộm cắp lần này của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động truy tố bị cáo Vi Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét thấy bị cáo Vi Văn Đ là đối tượng nghiện ma túy, nhân thân rất xấu; bị cáo đã bị kết án hai lần về tội Trộm cắp tài sản, một lần về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; mặc dù bị cáo đã chấp hành xong các bản án đó, đã đương nhiên được xóa án tích nhưng bị cáo không tiếp thu sự quản lý, giáo dục của pháp luật, vẫn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục, không biết ăn năn hối cải, vì vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo là đúng với chính sách xử lý của pháp luật hình sự Nhà nước ta. Song, khi lượng hình phạt Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; sau khi bị phát hiện bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại 10Kg nho đã trộm cắp để trả lại cho người bị hại, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, hình phạt áp dụng đối với bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[3] Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, gia đình thuộc diện hộ nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng:

Người bị hại là bà Nguyễn Thị B đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, bà B không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nữa nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Quá trình điều tra vụ án có tạm giữ 01 chiếc đèn pin của bị cáo. Xét thấy chiếc đèn pin đó bị cáo sử dụng làm công cụ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng giá trị không đáng kể nên cần phải tịch thu để tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo Vi Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, nhưng bị cáo là thành viên hộ nghèo; theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai tố cáo, khiếu nại gì. Hội đồng xét xử kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đúng quy định và hợp pháp.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Vi Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

2- Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vi Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án (hoặc từ ngày bắt thi hành án).

3- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu của Vi Văn Đ 01 chiếc đèn pin có đặc điểm như biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu của Cơ quan điều tra lập ngày 03/3/2020 để tiêu hủy.

Vật chứng nêu trên lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

4- Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vi Văn Đ.

Bị cáo có mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án xét xử vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Động - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về