Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 16/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

 Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Trịnh Thùy L; Sinh năm: 1996 Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

2.Bị đơn: Anh Trương Văn M; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/02/2020, bản tự khai ngày 28/02/2020 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa hôm nay, chị Trịnh Thùy L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trương Văn M kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 12/11/2015 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trước khi kết hôn vợ chồng chưa có nhiều thời gian tìm hiểu kỹ về nhau nên khi về chung sống một nhà thì luôn sảy ra bất đồng cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện tại, chị và anh M đã sống ly thân đến nay được 02 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.

Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là Trương Ly N, sinh ngày 22/11/2015. Từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu luôn ở với bố và ông bà nội.

Để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống của cháu, sau khi ly hôn chị đề nghị được giao con cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh M.

Về tài sản : Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Trương Văn M trình bày: Về ngày kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như nguyên đơn trình bày. Sau ngày kết hôn, vợ chồng hòa thuận được gần ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống. Mặt khác, do chị L có người đàn ông khác nên đã bỏ nhà đi từ 02 năm nay không về nhà nên vợ chồng không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh, anh cũng đồng ý ly hôn với chị L.

Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là Trương Ly N, sinh ngày 22/11/2015. Từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu luôn ở với anh. Nay ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử ( Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Trịnh Thùy L được ly hôn anh Trương Văn M; Về con cái: Giao con chung là cháu Trương Ly N, sinh ngày 22/11/2015 cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh M không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh M theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh M đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh M đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được.

Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

[4]. Về hôn nhân: Chị Trịnh Thùy L và anh Trương Văn M kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 12/01/2015 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trước khi kết hôn vợ chồng chưa có nhiều thời gian tìm hiểu kỹ về nhau nên khi về chung sống một nhà thì luôn sảy ra bất đồng cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện tại, chị L và anh M đã sống ly thân đến nay được 02 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này, cả chị L và anh M đều thừa nhận và đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân mà Tòa án đã tiến hành thu thập. Nay chị L và anh M đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trịnh Thùy L được ly hôn anh Trương Văn M.

[6].Về con cái: Vợ chồng có một con chung tên là Trương Ly N, sinh ngày 22/11/2015. Ly hôn, chị L yêu cầu được giao con cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh M, anh M cũng yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu N luôn ở với anh M. Để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị L và anh M, giao cháu N cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh M.

[7] Về tài sản: Chị L và anh M không yêu cầu nên miễn xét.

[8] Về án phí: Chị L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Trịnh Thùy L được ly hôn anh Trương Văn M.

Về con cái: Giao con chung là cháu Trương Ly N, sinh ngày 22/11/2015 cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh M. Chị L có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Trịnh Thùy L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2018/0002684 ngày 28/02/2020, chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Trịnh Thùy L và anh Trương Văn M.

Chị L và anh M có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về