Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 11/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HOÀ, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 16/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 06/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXX- ST ngày 24 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phạm Thị Kiều C, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh L- Có mặt;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992; Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh B- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 18/12/2019, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn (chị Phạm Thị Kiều C) trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T cưới nhau có tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 17/10/2012 tại UBND xã H. Sau khi cưới chị về nhà anh T làm dâu ngay và sống chung cùng gia đình. Tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường được 01 năm, đến tháng 8/2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng có nhiều quan điểm sống bất đồng, không hợp nhau về cuộc sống dẫn đến vợ chồng thường xảy ra cãi cọ với nhau. Do mâu thuẫn căng thẳng và trầm trọng nên chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 8/2013, vợ sống ly thân từ đó đến nay, chấm dứt mọi quan hệ, không còn quan tâm đến nhau. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh T, vì vậy chị làm đơn xin ly hôn anh T, đề nghị Tòa giải quyết để vợ chồng chị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/01/2013, hiện nay cháu đang ở với chị và vẫn phát trỉnh bình thường, ly hôn chị đề nghị để chị được trực tiếp nuôi con chung của vợ chồng, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hiện nay chị không mang thai.

- Về tài sản chung, công sức, công nợ, ruộng đất và các quan hệ khác: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn (anh Nguyễn Văn T): Đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và cũng không gửi ý kiến, văn bản đến Tòa án, vì vậy không có lời khai trong hồ sơ. Tòa án đã trực tiếp cùng với địa phương về làm việc tại gia đình nhưng anh T vắng mặt. Ông Nguyễn Văn L (là bố của anh T) trình bày: Anh Hiện hiện đang có hộ khẩu thường trú tại gia đình ông, tuy nhiên do anh T đang đi làm ăn kinh tế (làm nghề tự do) ở trong miền Nam, còn địa chỉ của anh Tuấ ở đâu gia đình không rõ, thỉnh thoảng anh T vẫn về thăm gia đình, nhưng trong năm thì anh T chưa về. Khi Tòa án thụ lý vụ việc ly hôn giữa chị C và anh T theo đơn khởi kiện của chị C, các thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải, giấy triệu tập gửi về cho anh T gia đình đều đã nhận được và đã thông báo cho anh T biết, nhưng anh T bận công việc chưa đến Tòa án đề giải quyết việc ly hôn giữa anh T và chị C được. Gia đình sẽ động viên anh T lên Tòa án để giải quyết vụ việc cho dứt điểm. Anh T đi làm kinh tế ở miền Nam nhưng không cắt khẩu khỏi đị phương và không xin tạm trú, tạm vắng nên gia đình xác định anh T không đi hẳn khỏi địa phương mà chỉ đi làm ăn kinh tế, xác định vẫn về sinh sống tại địa phương. Anh T không thông báo địa chỉ cụ thể nơi làm việc và nơi ở hiện nay cho gia đình biết. Về quan hệ hôn nhân thì anh T và chị C sống ly thân khoảng 6- 7 năm nay không quan tâm gì đến nhau. Việc chị C có đơn xin ly hôn do anh T không nói gì về quan điểm của anh T nên gia đình không nắm bắt được ý kiến của anh T. Về con chung: vợ chồng anh T, chị C có 01 con chung là Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/01/2013. Cháu B sống cùng chị C từ khi chị C bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống cho đến nay. Trường hợp vợ chồng ly hôn anh T cũng không có ý kiến gì với gia đình nên không rõ quan điểm của anh T về việc nuôi con. Về tài sản: Vợ chồng anh T, chị C không có gì liên quan.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến và xác định về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án cơ bản đúng quy định của pháp luật, đối với bị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Điều 51, Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 40 của Bộ luật dân sự; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Kiều C được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao chị Phạm Thị Kiều C trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/01/2013. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị C cho đến khi đương sự có yêu cầu. Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Phạm Thị Kiều C phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0003525 ngày 07/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Xác nhận chị C đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện đề ngày 18/12/2019 của chị Phạm Thị Kiều C đây xác định là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Văn T là bị đơn đã được Toà án triệu tập, thông báo thụ lý vụ án, thông báo hoà giải hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ 2 nhưng đương sự vẫn vắng mặt. Qua xác minh tại địa phương và gia đình cung cấp, hiện anh T vẫn có hộ khẩu thường trú tại thôn Hoàng Liên, xã H, huyện Hiệp Hòa, anh T hiện đang làm ăn kinh tế tại miền Nam thỉnh thoảng vẫn về thăm gia đình, gia đình xác định khi Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải, giấy triệu tập của Tòa án triệu tập anh T đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn giữa chị C và anh T, gia đình đã thông báo cho anh T biết nhưng anh T bận công việc chưa đến Tòa án làm việc được, địa chỉ nơi làm việc và nơi ở hiện nay của anh T gia đình cũng không biết vì anh T không nói cho gia đình biết. Vì vậy, xác định anh T đã cố tình giấu địa chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị C và Tòa án trong việc giải quyết ly hôn giữa chị C và anh T.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 207 và điểm b khoản 2 §iÒu 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn có tên nêu trên.

[2]. Về quan hệ tranh chấp:

[2].1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Kiều C và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND xã được xác định là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

[2].2. Xét yêu cầu về việc xin ly hôn của chị C thấy rằng: Qua các chứng cứ do các bên xuất trình, lời khai của người làm chứng được biết: Vợ chồng chị C, anh T từ khi kết hôn có thời gian ngắn chung sống hạnh phúc nhưng tình cảm vợ chồng đã không duy trì phát triển được, năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Xuất phát từ việc hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm nên thường hay vãi cọ nhau. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị C đã chuyển về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 8/2013, vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay, đã chấm dứt quan hệ tình cảm, không còn quan tâm đến nhau. Chị C có đơn xin ly hôn, anh T đã được Tòa án thông báo và triệu tập đến Tòa án để làm việc về việc chị C có đơn xin ly hôn, anh T biết rõ việc Tòa án đang thụ lý giải quyết việc ly hôn giữa chị C và anh T nhưng anh T không đến làm việc theo giấy triệu tập và cũng không có ý kiến, văn bản phản hồi gì đối với việc chị C xin ly hôn. Địa phương đề nghị Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, trường hợp không hòa giải được thì đề nghị giải quyết theo pháp luật, tuy nhiên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được anh T không đến Tòa án theo thông báo và giấy triệu tập. Ông Nguyễn Văn L là bố đẻ của anh T cung cấp do anh T không nói gì về quan điểm đồng ý ly hôn chị C hay không và đề nghị về việc nuôi con chung của vợ chồng như thế nào nên gia đình không biết quan điểm của anh T trong việc giải quyết ly hôn với chị C. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị C và anh T đã phát triển trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng điều 55 Luật hôn nhân gia đình để giải quyết cho chị C được ly hôn anh T là phù hợp, cho nên yêu cầu xin ly hôn của chị C cần được chấp nhận.

[2].3. Xét yêu cầu về việc nuôi con chung của hai bên thấy rằng: Chị C và gia đình bố đẻ anh T đều xác định vợ chồng chị C và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/01/2013, hiện nay cháu đang ở với chị và vẫn phát trỉnh bình thường, ly hôn chị C đề nghị để chị được trực tiếp nuôi con chung của vợ chồng, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị C. Anh T không có ý kiến phản hồi gì gửi cho Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị C và anh T sống ly thân thì cháu Gia B vẫn sinh sống cùng chị C cho đến nay, cháu vẫn phát triển bình thường. Vì vậy để đảm B quyền lợi về mọi mặt của đứa trẻ, cần giao con chung của vợ chồng cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia B là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân gia đình. Cho nên đề nghị được nuôi con chung của chị C cần được chấp nhận. Anh T được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2].4. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Tại Tòa án cũng như tại phiên tòa, chị C không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị C vì xác định đủ điều kiện để tự mình nuôi con, xét thấy là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần được chấp nhận.

[2].5. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác, công sức và các quan hệ khác: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết cho nên không xem xét giải quyết trong vụ án.

[2].6. Về án phí: Chị Phạm Thị Kiều C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 40 của Bộ luật dân sự; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Kiều C được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao chị Phạm Thị Kiều C trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/01/2013. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị C cho đến khi đương sự có yêu cầu. Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Phạm Thị Kiều C phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0003525 ngày 07/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Xác nhận chị C đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 11/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:16/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về