Bản án 16/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng H, sinh năm 1984; giới tính: nam; nơi sinh: huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: xóm 10A, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1960, bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1961; có vợ Phạm Thị T, sinh năm 1984 và 02 con lín nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15/02/2019 cho đến nay tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

-  Người bị hại: Anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 1972; trú tại: xã K, huyện Đ, TP. Hà Nội. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Hải N, s inh năm 1987; trú tại: xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

+ Ông Đào Văn H4, sinh năm 1961; trú tại:  xóm 2, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

+ Anh Phan Văn T1, sinh năm 1976; trú tại: xóm 2, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 17/11/2018, Nguyễn Trọng H từ nhà ở xóm 10A, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình đi nhờ xe của người dân đi đường đến xã K, huyện K với ý định trộm cắp tài sản kiếm tiền tiêu xài. Khi xuống tới khu vực xóm 2, xã K, H xuống xe rồi đi lang thang thì gặp đám tang của ông Đào Văn N, sinh năm 1927 nên đi vào đám như người quen biết trong gia đình, H chủ động dọn dẹp, kê bàn ghế với mục đích tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 17 giờ cùng ngày, có người trong đám nhờ đi cắm quạt điện, H mang quạt vào trong cửa bếp, quan sát thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 của anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 1972, trú tại: xã K, huyện Đ, tp. Hà Nội (họ hàng nhà ông N) đang cắm sạc ở gần cửa bếp, thấy không có người trông coi nên H đi đến dùng tay trái cầm điện thoại, tay phải rút dây sạc rồi đút điện thoại vào túi quần sau bên trái. Sau khi lấy được điện thoại H rời khỏi đám đi bộ về hướng xã Â rồi đi nhờ xe của người đi đường về xã K, huyện Y tới cửa hàng sửa chữa điện thoại di động “H” của anh Nguyễn Hải N, sinh năm 1987 trú tại: xóm 8, xã K nhờ mở khóa và chạy lại phần mềm thì anh N nói “Để đấy tí có người về làm”, H để lại quán và ra đứng ở cửa đợi. Khi phát hiện bị mất điện thoại anh H đã có đơn trình báo lên Cơ quan Công an rồi cùng với vợ là chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1972 đi tìm theo vị trí định vị của điện thoại và phát hiện chiếc điện thoại ở quán “H” nên đã trình báo với Cơ quan công an huyện Y bắt giữ H cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá số 41/HĐ-ĐG ngày 20/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện K kết luận: 01  chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 có giá trị là 17.964.000đ.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội Nguyễn Trọng H đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 15/02/2019  Hợp  ra đầu thú theo quyết định Truy nã số 01/CQĐT ngày 29/01/2019 của Cơ quan CSĐT – Công an huyện K.

Quá trình điều tra cơ quan công an đã trả lại cho anh Nguyễn Văn H3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 kèm theo 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa màu đen. Anh H3 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu hay đề nghị gì. Chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K gồm: 01 mũ lưỡi chai, 01 áo len không cổ màu vàng, 01 quần jean màu xanh là đồ mà Hợp mặc khi trộm cắp tài sản.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện K Nguyễn trọng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 04/4/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX:

-Tuyên bố: Nguyễn Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 173;  điểm i, s, khoản 1, 2 Điều 51Đ iều BLHS năm 2015 xử phạt b ị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2019.

- Căn cứ Điều 47  BLHS 2015; Điều 106, 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Trả lại cho bị cáo  01 mũ lưỡi trai, 01 áo len không cổ màu vàng, 01 quần jean màu xanh; buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện K; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trọng H thừa nhận hành vi của mình thực hiện như tóm tắt nội dung vụ án của Tòa án; Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng còn phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét công khai tại phiên tòa hôm nay như: Kết luận định giá tài sản và vật chứng liên quan là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 có giá trị là 17.964.000đ.

[3]Từ những chứng cứ đó, đã có đầy đủ cơ sở kết luận khoảng 17 giờ ngày 17/11/2018, tại xóm 2, xã K, huyện K, bị cáo Nguyễn Trọng H đã có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note 8 của anh Nguyễn Văn H3; Hành vi đó của Nguyễn Trọng H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4]Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi đó của bị cáo cần được xử lý nghiêm. Khi lượng hình HĐXX xét: bị cáo không có tình tiết tăng nặng; có các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khi bị truy nã đã ra đầu thú quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình phạt. Căn cứ mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục cải tạo bị cáo cũng như răn đe, phòng ngừa chung.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Chiếc điện thoại đã được thu hồi, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh H3, anh đã nhận lại và không có yêu cầu gì. Căn cứ khoản 2 Đ iều 47 BLHS năm 2015; điểm b, c khoản 3 Đ iều 106 BLTTHS 2015 việc trả lại là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét về vấn đề này.

[6] Đối với 01 mũ lưỡi chai, 01 áo len không cổ màu vàng, 01 quần jean màu xanh là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án. Căn cứ điểm a, khoản 3 Đ iều 106 BLTTHS 2015 cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý đảm bảo thi hành án.

[7] Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật tại khoản 1, Điều 135 và khoản 2, Điều 136 BLTTHS. Bị cáo người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1, điều 173; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; điểm a, c khoản 1, khoản 2, Điều 47 BLHS 2015. Điểm a, c, khoản 2; điểm a, khoản 3 Điều 106; khoản 1, Điều 135 và khoản 2, Điều 136 BLTTHS 2015 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 12 (mười hai) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2019.

3. Trả lại cho bị cáo 01 mũ lưỡi chai, 01 áo len không cổ màu vàng, 01 quần jean màu xanh (chi tiết vật chứng như trong biên bản bàn giao giữa Cơ quan điều tra và chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 05/4/ 2019).

4. Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về