Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện P, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 106/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019 về Tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXX - ST ngày 27 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1993.

Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn K, xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991.

Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn K, xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị Thu H trình bày:

Chị với anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau từ tháng 11 năm 2015 là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội (Đăng ký kết hôn số 92, Quyển số 01 ngày 18/11/2015). Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình anh T ở thôn K, xã M, huyện P. Sau một thời gian chung sống đến cuối năm 2017 vợ chồng bộc lộ sự không hòa hợp về tính cách, đặc biệt là bất đồng trong cuộc sống, trong sinh hoạt gia đình, trong công việc, trong làm ăn kinh tế, mỗi người một chí hướng, không tìm được tiếng nói chung, không có sự tôn trọng lẫn nhau, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra to tiếng cãi vã, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn đã trầm trọng nên tháng 3/2018 chị mang con về ở nhà bố mẹ đẻ tại huyện D, tỉnh N, vợ chồng tự sống ly thân nhau cho đến nay.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức... nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 17/10/2017 hiện đang ở cùng chị; do con chung còn nhỏ nên ly hôn chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung vợ chồng: Không có nên chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Không có nên chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Phía bị đơn anh Nguyễn Văn T:

Mặc dù đã nhiều lần được triệu tập đến Tòa làm việc cũng như triệu tập phiên tòa hợp lệ nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do nên không rõ quan điểm.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã M, huyện P và làm việc với mẹ đẻ anh T là bà Trần Thị D...qua xác minh, làm việc, xác định anh T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn đang cư trú sinh sống tại thôn K, xã M, huyện P. Phía bà D khẳng định đã giao lại cho anh T giấy triệu tập cùng các văn bản tố tụng khác của Tòa án.

Quan điểm của UBND xã M là đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh T.

Đại diện VKSND tham gia phiên toà xác định:

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng cứ, chấp hành đúng pháp luật tố tụng; Đương sự vắng mặt đã được Tòa án tạo mọi điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự; Đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà...

Do mâu thuẫn đã trầm trọng, thời gian ly thân lâu, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H và áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử: Cho chị Trần Thị Thu H được ly hôn anh Nguyễn Văn T; về con chung giao chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 17/10/2017 và tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh T; về tài sản chung, công nợ chung không xem xét trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở lời trình bày của các bên đương sự và quan điểm của Đại diện VKSND, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ kiện Hôn nhân và gia đình tranh chấp về ly hôn, bị đơn có địa chỉ cư trú tại thôn K, xã M, huyện P nên TAND huyện P thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn anh Nguyễn Văn T: Quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt anh T là đúng quy định tại các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Văn T là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, Thành phố Hà Nội (Đăng ký kết hôn số 92, Quyển số 01 ngày 18/11/2015). Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn kéo dài nhiều năm kể từ cuối năm 2017 do bất đồng quan điểm trong cuộc sống cộng với tính cách không hòa hợp mỗi bên, không tôn trọng, tin tưởng nhau trong cuộc sống, từ đó nảy sinh những xung đột mà đỉnh điểm mâu thuẫn vợ chồng từ tháng 3/2018 khiến chị H bỏ đi khỏi nhà anh T, chấm dứt quan hệ tình cảm vợ chồng cho đến nay. Về phía anh T đã được Tòa án triệu tập làm việc, hòa giải nhiều lần song đều không đến Tòa làm việc đã thể hiện thái độ bỏ mặc, không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng bởi tình cảm vợ chồng thực sự không còn do mâu thuẫn đã quá lâu, đời sống vợ chồng không có cơ hội hàn gắn bởi từ hai phía đều không ai mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân là hạnh phúc gia đình vì thế không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị H về ly hôn anh T là có căn cứ nên áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị H được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị H, anh T có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 17/10/2017 hiện chị H đang nuôi dưỡng; do con chung còn nhỏ cần sự chăm sóc trực tiếp của mẹ, mặt khác phía anh T không đến Tòa làm việc, không có quan điểm, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo quyền lợi tốt nhất và tính ổn định trong sự phát triển của con chung, cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của chị H về nuôi dưỡng con chung là hợp lẽ và ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án do anh T không đến Tòa làm việc nên chưa có đầy đủ căn cứ xác định được tài sản chung, công nợ chung của chị H, anh T; để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nên phần tài sản, công nợ chung cần tách ra chưa xét trong vụ án này và sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có tranh chấp phát sinh.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị H và bị đơn anh T có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57 Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Trần Thị Thu H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung của chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Văn T là Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 17/10/2017 cho chị Trần Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm miễn cho anh Nguyễn Văn T việc cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở 3. Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005391 ngày 23/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P. Chị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành an được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về