Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 23 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 781/2018/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 387/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T – sinh năm 1978 (có mặt); Địa chỉ: khóm V, thị trấn S, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Phạm Công D – sinh năm 1972 (có mặt); Địa chỉ: khóm V, thị trấn S, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13-11-2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Năm 2001, chị T và anh Phạm Công D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Đ, huyện D, tỉnh Cà Mau. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, không hợp nhau. Hai người đã ly thân gần 01 năm nay mà không có hàn gắn tình cảm vợ chồng. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không thể đoàn tụ nên chị T xin ly hôn với anh D.

Về nuôi con chung: Chị T và anh D có 02 người con chung là Phạm Minh K, sinh năm 2002 và Phạm Ánh M, sinh ngày 29-12-2007, đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu nuôi con theo nguyện vọng của hai con và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản: Chị T tự thỏa thuận với anh D, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị T xác định không có.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Phạm Công D đầy đủ, đúng theo quy định pháp luật nhưng bị đơn không có văn bản thể hiện ý kiến của mình. Tại phiên tòa, bị đơn trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, thời gian ly thân đúng như chị T trình bày. Anh D thừa nhận do bận công tác, thường xuyên vắng nhà nên ít quan tâm vợ con. Tuy nhiên, mâu thuẫn vợ chồng không lớn. Anh D xin đoàn tụ với chị T.

Về nuôi con chung: Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh D đồng ý giao hai con Phạm Minh K, sinh năm 2002 và Phạm Ánh M, sinh ngày 29-12-2007 cho chị T nuôi dưỡng. Anh D đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo pháp luật.

Về tài sản chung: Anh D và chị T tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh D xác định không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Năm 2001 chị Phạm Thị T và anh Phạm Công D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hợp pháp và được bảo vệ.

[3] Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo chị T trình bày: Do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, không hợp nhau. Hai người đã ly thân gần 01 năm nay. Về phía anh D xin đoàn tụ với chị T nhưng anh D không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong khi đó, chị T xác định không còn tình cảm và cương quyết ly hôn với anh D. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì chị T không chung sống với anh D. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh D.

[3] Về nuôi con chung: Chị T và anh D có 02 người con chung là Phạm Minh K, sinh năm 2002 và Phạm Ánh M, sinh ngày 29-12-2007, đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu nuôi con theo nguyện vọng của hai con. Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 12-12-2018, hai cháu K và M có nguyện vọng sống với chị T. Tại phiên tòa, anh D đồng ý giao hai con cho chị T nuôi. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Phạm Minh K và Phạm Ánh M cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của các con.

Anh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con, chị T yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật, anh D đồng ý. Căn cứ vào khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Do đó, Hội đồng xét xử buộc anh D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai cháu Phạm Minh K và Phạm Ánh M, mỗi tháng 695.000 đồng x 02 người = 1.390.000 đồng, liên tục hành tháng cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

[5] Về chia tài sản: Anh D và chị T tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị T và anh D xác định không có.

[7] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh D phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 143, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị T và anh Phạm Công D.

2. Về nuôi con chung:

2.1 Giao con chung Phạm Minh K, sinh năm 2002 và Phạm Ánh M, sinh ngày 29-12-2007 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2 Buộc anh D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con Phạm Minh K và Phạm Ánh M mỗi tháng 1.390.000 đồng (Một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), liên tục hàng tháng cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Kể từ ngày người có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ngày 22-11-2018, chị T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008917 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ.

Anh D phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 “Trường hợp bản án được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về