Bản án 16/2019/DS-ST ngày 24/06/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 16/2019/DS-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại TAND huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2019/TLST-DS ngày 01 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2019, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị G; địa chỉ: đường V, Tổ dân phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Tuấn H; địa chỉ: đường H, Tổ dân phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Theo văn bản ủy quyền ngày 28/01/2019. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị H; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Đình B; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/01/2018 của chị Nguyễn Thị G có nội dung: Do quen biết nên chị G nhiều lần cho chị H vay tiền vào năm 2018, ngày 10/9/2018 hai bên tính toán thống nhất và chị H tự tay viết và ký giấy xác nhận còn nợ chị G 870.000.000đ, thỏa thuận chị H có trách nhiệm trả nợ trong hạn 10 ngày, kể từ ngày chị G yêu cầu. Mặc dù chị G nhiều lần yêu cầu nhưng chị H chưa trả tiền cho chị G như đã thỏa thuận. Vì vậy, chị G khởi kiện yêu cầu chị H phải trả số tiền nợ gốc là 870.000.000đ, không yêu cầu trả lãi. Chứng cứ chứng minh là 01 văn bản “GIẤY MƯỢN TIỀN” ghi ngày 10/9/2018.

Trong giai đọan chuẩn bị xét xử, đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Tuấn H yêu cầu chị H và chồng là anh Trần Đình B cùng có trách nhiệm trả cho chị G 870.000.000đ.

Tại phiên tòa, chị G khẳng định không có việc chị H vay của người khác sau đó thỏa thuận chuyển sang nhận vay của chị G, không có việc cộng lãi vào gốc như chị H trình bày. Số tiền 870.000.000 đồng mà chị H ký nhận vay đều là nợ gốc do chị H vay nhiều lần mà thành. Do anh B không ký giấy vay tiền nên chị G yêu cầu cá nhân chị H trả 870.000.000đ, không yêu cầu anh B trả nợ. Không chấp nhận việc chị H đề nghị trả 300.000.000 đồng như chị H trình bày.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị đơn chị Phạm Thị H trình bày: Vào cuối tháng 8 năm 2018, chị có vay của chị G 70.000.000 đồng với lãi suất 20.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày để làm vốn buôn trái cây nhưng chồng chị là anh B không biết chị vay tiền. Sau đó cứ 05 ngày chị trả lãi một lần và đã trả được khoảng 5 hoặc sáu lần tiền lãi. Do buôn bán thua lỗ nên từ cuối tháng 9/2018 chị không có khả năng trả lãi nữa, từ đó cứ 05 ngày chị G lại cộng lãi vào gốc và yêu cầu chị viết giấy vay mới. Ngày 19/12/2018 âm lịch (ngày 29/01/2019 dương lịch), chị G yêu cầu chị viết, ký tên và điểm chỉ vào văn bản “GIẤY MƯỢN TIỀN” ghi ngày 10/9/2018 để xác nhận còn nợ chị G 870.000.000 đồng. Chị xác định cá nhân chị có trách nhiệm trả cho chị G 70.000.000 đồng và tiền lãi tính từ cuối tháng 9 năm 2018 đến nay. Tuy nhiên, chị không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời khai của mình.

Tại phiên tòa, chị H thay đổi lời khai, cho rằng chị chưa bao giờ vay tiền của chị G, cuối tháng 8 năm 2018 chị vay 70.000.000 đồng của người khác, sau đó thỏa thuận để chị chuyển sang nhận vay của chị G. Do sau đó chị G cộng lãi vào gốc nhiều lần nên số nợ là 870.000.000 đồng. Nay chị đồng ý trả cho chị G 300.000.000 đồng, thời hạn trả vào tháng 12 năm 2019.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Đình B đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không có lời khai.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh xác định Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị G, buộc chị H trả cho chị G 870.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu và xem xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, của đại diện Viện kiểm sát và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị G và người đại diện là ông H có mặt; bị đơn chị H có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh B đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vụ án là đúng pháp luật.

[2] Văn bản “GIẤY MƯỢN TIỀN” ghi ngày 10/9/2018 do nguyên đơn giao nộp có nội dung chị H vay của chị G 870.000.000 đồng, thanh toán trong hạn 10 ngày kể từ ngày chị G yêu cầu trả nợ, bên dưới có dấu điểm chỉ và chữ ký, ghi họ tên là “Phạm Thị H”. Quá trình tố tụng, chị H thừa nhận chị đã tự nguyện viết, điểm chỉ và ký tên trong văn bản “GIẤY MƯỢN TIỀN” ghi ngày 10/9/2018 nêu trên. Nay chị H lại cho rằng không vay tiền của chị G, trong số tiền 870.000.000 đồng mà chị viết giấy nhận nợ nêu trên chỉ có 70.000.000 đồng là nợ gốc do chị vay của người khác chuyển sang, còn lại là tiền lãi theo mức 20.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày kể từ cuối tháng 9 năm 2018 đến ngày 19/12/2018 âm lịch (ngày 29/01/2019 dương lịch). Tuy nhiên, lời khai của chị H cũng không được phía chị G thừa nhận và chị H không đưa ra được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh. Do đó, lời khai của chị H là không có cơ sở chấp nhận. Cần xác định chị H đã vay và còn nợ chị G 870.000.000 đồng là đúng sự thật. Nay chị H đề nghị trả 300.000.000 đồng nhưng chị G không đồng ý. Cần áp dụng Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015, buộc chị H phải trả cho chị G khoản nợ 870.000.000 đồng là có căn cứ pháp luật. Theo lời khai của chị H thì chồng chị là anh B không biết việc chị vay tiền của chị G. Thực tế giấy vay tiền do phía chị G giao nộp không có chữ ký của anh B, phía chị G cũng không có chứng cứ chứng minh anh B biết và sử dụng số tiền chị H đã vay. Do đó không có căn cứ buộc anh B có trách nhiệm cùng chị H trả nợ.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tính trên số tiền phải thanh toán là: 36.000.000 đồng + (70.000.000 đồng x 3%) = 38.100.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, các Điều 144, 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị G. Buộc chị Phạm Thị H trả cho chị Nguyễn Thị G số tiền 870.000.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Buộc chị Phạm Thị H phải chịu 38.100.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả chị Nguyễn Thị G 19.050.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0009415 ngày 01/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Di Linh.

3. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết tại UBND xã (phường, thị trấn) nơi đương sự cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/DS-ST ngày 24/06/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:16/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về