Bản án 16/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YL, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 16/2019/DS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yl, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 16/2019/TLST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc T Sinh năm 1971

Trú tại: Tổ 59, khu H, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Ông Lê Cao P Sinh năm 1960

Trú tại: Khu Q1, xã N, huyện Yl, tỉnh Phú Thọ.

(Ông T có yêu cầu xét xử vắng mặt, ông P vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Nguyễn Khắc T trình bày:

Ngày 09/8/2018, ông Lê Cao P, sinh năm 1960 có vay của ông số tiền 1.300.000.000 đồng (Một tỷ ba trăm triệu đồng), thời hạn vay là 01 tháng (từ 09/8/2019 đến 09/9/2018), lãi suất hai bên thỏa thuận là 3.000 đồng/01 triệu/01 tháng (9%/01 tháng), mục đích vay để kinh doanh, chăn nuôi lợn. Đến hẹn trả nợ ông P không thanh toán tiền gốc và cũng không thanh toán tiền lãi cho ông. Ông đã gọi điện và đến nhà ông P nhiều lần, yêu cầu ông P phải thanh toán số tiền trên nhưng ông P cố tình lẩn tránh, chây ỳ không trả nợ.

Kể từ khi ông P vay tiền đến ngày Tòa án thụ lý vụ án (14/5/2019), ông P không trả cho ông tiền gốc cũng như chưa trả một đồng tiền lãi nào.

Nay ông T đề nghị Tòa án buộc ông P phải trả cho ông số tiền gốc 1.300.000.000 đồng, ông không yêu cầu lãi suất từ khi vay đến khi Tòa án xét xử, còn sau khi Tòa án xét xử mà ông P không trả cho ông thì ông P phải chịu lãi suất theo quy định của pháp luật.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần, cũng như tại phiên tòa hôm nay ông P vẫn cố tình vắng mặt. Tòa án đã phối hợp với chính quyền địa phương và gia đình nhưng không cấp tống đạt được các văn bản tố tụng dân sự cho ông P đến Tòa án để viết bản tự khai, tham gia tố tụng trình bày quan điểm về việc ông T khởi kiện. Tòa án đã thực hiện niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật để ông P thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhưng không có kết quả.

Quá trình Tòa án giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay ông P cố tình vắng mặt, nguyên đơn ông T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật đối với các đương sự.

Căn cứ đề nghị của nguyên đơn, Tòa án đã trưng cầu giám định chữ viết chữ ký trong giấy vay nợ tiền giữa ông T và ông P, tại kết luận giám định số 958/KLGĐ- PC09 ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chữ ký đứng tên Lê Cao P và các chữ “Lê Cao P” dưới mục “Chồng” trên “Giấy biên nhận vay tiền” đề ngày 09 tháng 8 năm 2018 (tài liệu cần giám định) so với chữ ký đứng tên Lê Cao P và các chữ “Lê Cao P” dưới mục “Người viết đơn” trên “Đơn xin vắng mặt” (Tài liệu mẫu so sánh) là do cùng một người ký và viết ra.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định của pháp luật; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông P không đến Tòa án và không hợp tác để Tòa án giải quyết vụ án cũng như không có mặt tại phiên tòa hôm nay là do ông P tự khước từ quyền và nghĩa vụ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ theo quy định.

Kiểm sát viên có quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Xử buộc ông P phải trả ông T số tiền gốc 1.300.000.000 đồng, không giải quyết về lãi suất do ông T không yêu cầu; Buộc ông P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay ông P không đến Tòa án, mặc dù Tòa án đã triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng, như vậy ông P đã từ chối quyền theo quy định pháp luật, cố tình lẩn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết nên vụ án được giải quyết vắng mặt ông P theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Giấy biên nhận vay tiền giữa ông T và ông P được lập thành văn bản, có sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, nội dung và hình thức của hợp đồng đúng quy định của pháp luật. Vì vậy vụ án được xác định là vụ án dân sự Tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung của hợp đồng: Ông T và ông P thỏa thuận ông T cho ông P vay số tiền 1.300.000.000 đồng, thời hạn vay là 01 tháng, lãi suất hai bên thỏa thuận là 3.000 đồng/01 triệu/01 tháng (9%/01 tháng), như vậy đây là hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi. Mặc dù thỏa thuận của các bên là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự quy định về Lãi suất. Từ khi cho vay đến nay anh T xác định chưa thu được một đồng tiền lãi nào của ông P. Tiếp đó ông P cũng không đến Tòa án để tự khai và cung cấp chứng cứ về việc đã trả tiền lãi cho ông T.

Tòa án đã chuyển hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yl điều tra theo thẩm quyền nhằm xác định có hay không việc ông T thu lợi bất chính số tiền nhằm thỏa mãn yếu tố cấu thành tội phạm hình sự về “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo Điều 201 Bộ luật hình sự.

Tại công văn số 194/CSĐT(KTMT), ngày 28/10/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yl, tỉnh Phú Thọ đã xác định không có dấu hiệu của “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại Điều 201 BLHS. Chuyển Tòa án nhân dân huyện Yl giải quyết vụ án dân sự theo quy định.

Ông T đã yêu cầu ông P phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhiều lần nhưng ông P không thực hiện hiện nghĩa vụ; ông T khởi kiện ông P đến Tòa án mặc dù ông P không hợp tác để giải quyết nhưng qua thu thập chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn đã xác định được ông P vay tiền của ông T đến nay chưa trả là có thật; Nay ông T yêu cầu ông P phải trả cho ông số tiền gốc 1.300.000.000 đồng và không yêu cầu lãi suất từ khi vay tiền đến khi xét xử sơ thẩm là có căn cứ.

Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông P phải trả cho ông T 1.300.000.000 đồng tiền gốc, không buộc trả lãi suất do ông T không yêu cầu là có căn cứ được chấp nhận.

[4] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Lê Cao P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật của số tiền vay 1.300.000.000 đồng = 36.000.000đ + (500.000.000đ x 3%) = 51.000.000 đồng.

[5] Về chi phí giám định: Ông T đã nộp số tiền 2.000.000đ chi phí giám định, yêu cầu giám định của ông T là có căn cứ, được chấp nhận nên ông P phải chịu chi phí giám định theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 463, Điều 466 và Điều 357,468 Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Khắc T đối với bị đơn ông Lê Cao P.

Buộc ông Lê Cao P có nghĩa vụ phải trả nợ cho ông Nguyễn Khắc T số tiền gốc 1.300.000.000 đồng (Một tỷ ba trăm triệu đồng).

Ông P phải thanh toán cho ông T chi phí giám định, số tiền là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Tổng số tiền ông Lê Cao P phải trả cho ông Nguyễn Khắc T là 1.302.000.000 đồng (Một tỷ, ba trăm linh hai triệu đồng).

[2] Khi bản án này có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn yêu cầu, nếu người phải thi hành án không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

[3] Về án phí: Ông Lê Cao P phải chịu 51.000.000 đồng (Năm mươi mốt triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho ông Nguyễn Khắc T số tiền 25.500.000đ (Hai mươi lăm triệu năm trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0001012 ngày 14 tháng 5 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yl, tỉnh Phú Thọ.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:16/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về