TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 23/03/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 23 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2018/HSST ngày 25 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo: Huỳnh Văn T- Sinh năm 1996 tại Nam Định.
Nơi cư trú: Đội 13, xã Hg , huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; giới tính: Nam; con ông: Huỳnh Văn B, sinh năm 1971 và bà Đoàn Thị T, sinh năm 1970 , cả hai hiện làm ruộng tại đội 13, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định; vợ, con: Không; tiền sự, tiền án: Không. Bị can Huỳnh Văn T hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.
* Người bị hại: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1960 (đã chết) Nơi cư trú: Đội 6, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định.
* Đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1974;Nơi cư trú: Đội 6, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1989;
Nơi cư trú: Đội 4, xã M, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
3. Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1986;
Nơi cư trú: Đội 18, xã Hg Nam, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
* Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Quốc S, sinh năm 1967;
Nơi cư trú: Đội 5, xã Hg, huyện Nghĩa H, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1969;
Nơi cư trú: Đội 5, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 05/12/2017, Huỳnh Văn T điều khiển xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 di chuyển trên đường trục xã Hg theo hướng từ Đông sang Tây. Khi đi tới đoạn đường thuộc đội 5, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định, do không đi đúng phần đường, đi lấn sang phần đường của xe đi ngược chiều đã xô vào xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx do ông Nguyễn Văn T điều khiển, đang nổ máy, đầu xe quay hướng Đông (chưa di chuyển), làm hai xe mô tô đổ xuống đường. Hậu quả: Ông Nguyễn Văn T bị chấn thương vùng đầu được đưa đi cấp cứu và chết hồi 16 giờ cùng ngày. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nghĩa Hưng và Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện và tạm giữ xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 và xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx.
Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là đường trục xã thuộc đội 5, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng rộng 7 mét, đường chạy theo hướng từ Đông sang Tây. Lề đường phía Bắc rộng 1,5 mét giáp với nhà dân và lề đường phía Nam rộng 01 mét tiếp giáp với đất đình làng. Lấy mép đường phía Nam đường trục xã làm chuẩn. Điểm cố định của hiện trường là cột điện 45 - L2 nằm trên lề đường phía Nam; xe mô tô biển số 36H1 –1xxx đổ nghiêng sang phải trên mặt đường phía Nam. Đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam. Đầu trục bánh trước cách mép đường phía Nam 1,9 mét, đầu trục bánh sau cách mép đường phái Nam 1,6 mét, cách điểm cố định của hiện trường là 13,8 mét; xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 đổ nghiêng sang trái trên phần đường phía Nam, đầu xe quay hướng Tây Nam, đuôi xe quay hướng Đông Bắc, đầu trục bánh trước cách mép đường phía Nam 1,8 mét tới điểm cố định của hiện trường là 10,2 mét, đầu trục bánh sau cách mép đường phía Bắc 2,8 mét, cách đầu trục bánh sau của xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx là 3,5 mét; trên hiện trường có hai vết cày: Vết cày thứ nhất hình vòng cung dài 0,8 mét hướng Đông Bắc xuống Tây Nam. Điểm xuất phát của vết cày cách mép đường phía Nam là 1,9 mét, cách đầu trục bánh sau xe mô tô biển số 36H1–1xxx là 04 mét. Điểm kết thúc của vết cày trùng với cạnh ngoài phía sau của bô xe mô tô biển số 36H1–1xxx. Vết cày thứ hai hình vòng cung dài 0,6 mét hướng Đông Bắc xuống Tây Nam. Điểm xuất phát của vết cày cách mép đường phía Nam 2,7 mét. Điểm kết thúc của vết cày trùng với đầu bàn để chân người lái bên trái xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80; trên mặt đường có 01 đám máu có kích thước 0,1 x 0,1 mét, nằm lề đường phía Nam. Tâm đám máu cách mép đường phía Nam 0,4 mét, cách đầu trục bánh sau xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx là 2 mét; trên hiện trường có 01 đống cát kích thước 3 x 3 x 0,8 mét nằm trên phần đường phía Bắc của đường trục xã Hoàng Nam. Tâm đống cát cách mép đường phía Nam 5,4 mét, cách đầu trục bánh trước xe mô tô biển số 36H1–1xxx là 3,5 mét. Mép phía Nam của đống cát cách mép đường phía Nam là 4 mét.
Khám nghiệm phương tiện: Xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 xác định: Ốp nhựa bảo vệ đầu xe bên trái có vết tỳ trượt cao su kích thước 8 x 2 cm; mặt dưới pha đèn chiếu sáng bị vỡ rời khỏi vị trí ban đầu kích thước 8 x 8 cm; cạnh ngoài đầu chắn bùn phía trên bên trái bánh trước có vết tỳ miết xước nhựa kích thước 20 x 5 cm; trục càng phía trước xe mô tô bị đẩy ngược từ trước về sau một góc 15 độ; cạnh ngoài bên trái vành đúc bánh trước bị vỡ kích thước 15 x 3 cm. Tâm đám vỡ đối diện với chân van bánh trước; cạnh ngoài mặt lốp trước bên trái có vết tỳ trượt cao su kích thước 5 x 1,5 cm. Tâm vết tỳ trượt liền kề với vị trí tâm đám vỡ; phía dưới đầu bàn để chân người lái bên trái có vết tỳ mài cao su kích thước 3 x 2 cm; làm trật lõi sắt, đầu lõi sắt có vết tỳ mài kim loại kích thước 1 x 0,5 cm bề mặt còn dính bột đá màu trắng. Xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx xác định: Tay cầm người lái bên trái bị đẩy từ trước về sau từ dưới lên trên một góc 10 độ; ốp nhựa phía trên bao quanh đồng hồ công tơ mét bị long gẫy chốt liên kết lệch khỏi vị trí ban đầu; thanh kim loại bảo vệ lốc máy bên trái bị long vít liên kết phía trước rời khỏi vị trí ban đầu. Mặt ngoài thanh kim loại có vết tỳ trượt bám dính bột cao su màu đen kích thước 5 x 0,5 cm; cần dậm số xe mô tô bị đẩy theo hướng từ trước về sau từ trên xuống dưới một góc 45 độ; cụm kim loại giữ bàn để chân người lái bên trái và chân chống phụ bị gẫy rời khỏi vị trí ban đầu; ốp nhựa gắn ở hông xe bên trái bảo vệ cụm IC điện bị gẫy chốt liên kết rời ra ngoài; mặt ngoài cạnh đuôi phía cuối bô xe (ống xả) có vết tỳ mài kim loại kích thước 2 x 1 cm bề mặt còn dính bột đá màu trắng;
Tại bản kết luận số 970 ngày 12/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Nạn nhân Nguyễn Văn T, sinh năm 1960 chết do chấn thương sọ não, vỡ xương hộp sọ, chảy máu nội sọ.
Quá trình điều tra xác định: Điểm va chạm giữa 02 phương tiện là ốp nhựa bảo vệ đầu xe bên trái xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 va chạm vào tay cầm bên trái người lái xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx và mặt ngoài bánh trước bên trái xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 va chạm vào thanh kim loại bảo vệ lốc máy và cụm để chân người lái bên trái xe mô tô biển số 36H1–1xxx. Vị trí va chạm của 02 phương tiện nằm ở phần đường phía Nam đường trục xã Hg, phía trước vết cày thứ nhất. (Phần đường của xe mô tô biển số 36H1–1xxx do ông Nguyễn Văn T điều khiển). Nguyên nhân xảy ra tai nạn là do Huỳnh Văn T điều khiển xe mô tô đi không đúng phần đường, vi phạm khoản 1, Điều 9 Luật giao thông đường bộ. Huỳnh Văn T chưa có giấy phép lái xe hạng A1.
Bản cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 24/01/2018 của Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên toà hôm nay đại diện VKSND huyện Nghĩa Hưng đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như đã nêu trên. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo Huỳnh Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nghĩa Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 05 tháng 12 năm 2017, tại khu vực đường trục xã thuộc đội 5, xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định, Huỳnh Văn T chưa có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô đi không đúng phần đường, đi lấn sang phần đường của xe đi ngược chiều, đã va chạm với xe mô tô do ông Nguyễn Văn T điều khiển, đang nổ máy (chưa di chuyển), làm hai xe mô tô đổ xuống đường. Hậu quả: Ông Nguyễn Văn T bị vỡ xương hộp sọ, chảy máu nội sọ và chết hồi 16 giờ cùng ngày. Hành vi của Huỳnh Văn T đã vi phạm khoản 1, Điều 9 Luật giao thông đường bộ. Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ quy định: “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”.
Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định: ““1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định”. Như vậy hành vi mà bị cáo đã thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng truy tố bị cáo ra trước tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng để xem xét với tội danh và điều luật như đã viện dẫn là có căn cứ theo quy định của pháp luật.
Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của người khác. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu. Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và trong quá trình tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, đã có sự ăn năn hối cải và người đại diện theo pháp luật của người bị hại có đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải cách ly bị cáo mà để cải tạo tại địa phương cũng có thể cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, gia đình bị cáo và những người đại diện theo pháp luật của người bị hại tự nguyện thỏa thuận xong về việc bồi thường. Những người đại diện của người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.
[5]Về vật chứng của vụ án: Đối với xe mô tô biển số 18L1 - xxx.80 và xe mô tô biển số 36H1 – 1xxx, Cơ quan Công an đã trả lại cho Huỳnh Văn T và gia đình người bị hại là chủ sở hữu là phù hợp.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xết đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 202; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999;Căn cứ vào Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Căn cứ Điều 6, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
[1] Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;
[2] Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T 36 (ba mươi sáu)tháng tù nhưng cho nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án 23/3/2018.
Giao bị cáo Huỳnh Văn T cho UBND xã Hg, huyện N, tỉnh Nam Định nơi cư trú của bị cáo giám sát giáo dục. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
[3] Buộc bị cáo Huỳnh Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai có mặt bị cáo; vắng mặt những người đại diện hợp pháp của người bị hại. Báo cho những người có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 16/2018/HS-ST ngày 23/03/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 16/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về