Bản án 16/2017/HSST ngày 02/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P - TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 16/2017/HSST NGÀY 02/11/2017 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 02 tháng 11 năm 2017 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện P, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 14/2017/HSST, ngày 09 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Giàng A C - sinh ngày 16/02/1995 tại xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Trú tại: thôn K, xã T huyện B, tỉnh Bắc Kạn; trình độ văn hóa: 3/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Giàng Văn S và con bà Giàng Thị D; vợ: Lý Thị N, con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/6/2017 đến ngày 04/10/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn.(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo Giàng A C: ông Dương Văn K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn (Có mặt).

* Người bị hại:

Cháu Giàng Thị N - sinh ngày 07/10/2002

Trú tại: thôn T, xã L, huyện P, tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

* Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Ông Sùng A P - sinh năm 1963.

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Trú tại: thôn T, xã L, huyện P, tỉnh Bắc Kạn (Có mặt).

* Người phiên dịch: Ông Dương Văn M

Địa chỉ: Phòng Nội vụ huyện P, tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Giàng A C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố về hành vi phạm tội như sau: Chiều ngày 13/4/2017, Vàng A H sinh năm 1994 gọi điện thoại và hẹn Giàng Thị N sinh ngày 07/10/2002, trú tại thôn T xã L, huyện P và Ma Thị P sinh năm 2001, trú tại thôn N, xã B, huyện P để cùng nhau đi chơi. Khoảng 18 giờ H rủ Giàng A C cùng đi lên xã L, huyện P để gặp N và P thì C đồng ý, trước khi đi H cho C số điện thoại di động của N, C đã gọi điện thoại nói chuyện hẹn N đi chơi và được N đồng ý. Khoảng 19 giờ C và H đi đến đoạn đèo X thuộc thôn T, xã L, huyện P thì thấy N và P đang ở đây. C, H, N, P cùng đứng nói chuyện được một lúc sau đó cùng nhau đi xuống đoạn đường bê tông hướng đi xã B ngồi chơi, H nói chuyện với P còn C nói chuyện với N, khoảng 21 giờ H và P cùng nhau đi chỗ khác nói chuyện, C và N cùng nhau đi bộ vào khe núi, đến bãi đất trống, bằng phẳng thuộc thôn N, xã B, huyện P, C bẻ lá cây lót chỗ ngồi và cùng N ngồi nói chuyện, nói chuyện được một lúc C nảy sinh ý định giao cấu với N, C nói “Cho anh làm đi”, N hiểu ý C nói là cho quan hệ tình dục, N nói “Tùy anh thôi”. C bảo N nằm xuống rồi C nằm đè lên người N, tay trái chống xuống đất, tay phải cởi khóa tụt ống quần bên trái ra khỏi chân N còn ống quần bên phải tụt xuống đến đầu gối rồi dùng hai tay tự cởi quần của mình xuống đến đầu gối rồi đè sát lên người N, tay phải cầm dương vật đang cương cứng đưa vào trong âm hộ N thực hiện hành vi giao cấu, được khoảng một phút thì xuất tinh vào trong âm hộ N. Sau đó cả hai tự mặc lại quần và tiếp tục ngồi nói chuyện, khoảng 30 phút sau, C tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu với N và xuất tinh vào trong âm hộ N, sau đó cả hai tự mặc lại quần và đi về, khi đi ra đến đường 258B thì gặp anh trai N là Sùng Văn A đang đi tìm, sau đó A báo Công an xã L đến lập biên bản sự việc.

Tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra đã khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai bị cáo, người bị hại và trưng cầu giám định sức khỏe và sản phụ khoa đối với Giàng Thị N.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/4/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P xác định: Hiện trường vụ án là bãi đất rộng, bằng phẳng nằm sâu trong khe núi cách đường bê tông xã L đi xã B 150 mét về hướng Tây, thuộc thôn N, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Phía Đông giáp nương ngô của ông Thào A S, phía Tây giáp đường mòn đi ra phía đường 258B, phía Nam giáp đồi sắn của ông Lương Văn H, phía Bắc giáp đồi cây mỡ của ông Nông Văn M.

Tại bản Kết luận giám định pháp y số 40/GĐ-PY ngày 17/4/2017 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Bắc Kạn đối với Giàng Thị N kết luận: “Âm hộ bình thường; Màng trinh giãn rộng; Có 03 (ba) vết rách cũ ở các vị trí 01 giờ, 06 giờ, 11 giờ; tỷ lệ thương tật 00%”.

Tại Cơ quan điều tra Giàng A C khai nhận do được Giàng Thị N đồng ý nên C đã thực hiện hành vi giao cấu với N 02 (hai) lần, sau khi vụ án bị phát hiện, bị cáo đã bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của gia đình bị hại với số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 15/KSĐT-TA, ngày 06/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm đã truy tố bị cáo Giàng A C về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Giàng A C đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình là khoảng 21 giờ ngày 13/4/2017 tại thôn N, xã B, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn Giàng A C đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với Giàng Thị N sinh ngày 07/10/2002, hành vi giao cấu với Giàng Thị N mới đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi là phạm tội "Giao cấu với trẻ em" quy định tại điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự.

Tổng hợp các chứng cứ và đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy rằng Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Giàng A C về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của cháu Giàng Thị N được pháp luật hình sự bảo vệ, hành vi của bị cáo thể hiện sự suy đồi, xuống cấp về đạo đức gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do vậy cần xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Giàng A C sinh ra lớn lên trong gia đình lao động thuần túy, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trong vụ án này bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Giàng A C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án là cháu Giàng Thị N sinh ngày 07/10/2002, người đại diện hợp pháp cho cháu N là ông Sùng A P, tại phiên tòa cháu N và ông P xác nhận bị cáo Giàng A C đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho cháu N, nay không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Tại phiên tòa cháu N và ông P xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo C.

Gia đình bị cáo C thuộc hộ nghèo và bị cáo có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Giàng A C phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

- áp dụng điểm a khoản 2 Điều 115, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999;

* Xử phạt: Bị cáo Giàng A C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (Sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Giàng A C cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành hình sự.

* Về án phí: áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Giàng A C được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người bị hại, người bào chữa, người đại diện hợp pháp biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.<

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

552
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2017/HSST ngày 02/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:16/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về