TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 161/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 306/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 259/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hà Th, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Số 396/8A, tổ 12, khóm T1, phường M1, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Văn M, sinh năm 1979.
Địa chỉ: Số 719/11, đường Bùi Văn Danh, khóm Ph, phường X, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 4 năm 2021, bản tự khai cùng các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là bà Nguyễn Hà Th trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lê Văn M qua quá trình tìm hiểu quen biết nhau, sau đó cả hai quyết định tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào ngày 09/9/2002 âm lịch và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M1, thành phố L, tỉnh An Giang vào ngày 16/9/2004. Hôn nhân lần thứ nhất của bà và ông M. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do ông bà bất đồng quan điểm trong cách sống, tính tình không phù hợp nhau nên thường xuyên cự cãi. Mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông M vẫn không sửa đổi tính tình để cùng bà xây dựng cuộc sống gia đình. Vì vậy cả hai cũng đã chính thức ly thân từ tháng 8 năm 2017 đến nay; trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không một lần tới lui.
- Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống, ông bà có một con chung tên Lê Nguyễn Thanh N, sinh ngày 03/10/2004. Hiện nay, con chung đang do bà trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục kể từ khi vợ chồng chính thức ly thân cho đến nay.
- Về tài sản chung và nợ chung: Ông bà không có tài sản chung và nợ chung. Nhận thấy tình cảm của bà dành cho ông M không còn nên bà có yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông M. Về con chung, bà yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Lê Nguyễn Thanh N, sinh ngày 03/10/2004; bà không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Ttrình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là ông Lê Văn M đã được Tòa án niêm yết Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập ông M đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải đến lần thứ hai; triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông M vẫn vắng mặt không rõ lý do.
Tại văn bản trình bày ý kiến của con chung Lê Nguyễn Thanh N vào ngày 27/5/2021 có nội dung thể hiện nguyện vọng của em N là mong muốn Tòa án xem xét được tiếp tục sống chung với mẹ ruột là bà Nguyễn Hà Th trong trường hợp Tòa án chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông M.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, Nguyên đơn bà Nguyễn Hà Th có Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 27/5/2021.
Bị đơn ông Lê Văn M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Hà Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Văn M và có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền nuôi con chung nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn của vụ án là ông Lê Văn M có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 719/11, đường Bùi Văn D, khóm Ph, phường X, thành phố L, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông M theo quy định tại Điều 171, Điều 175, Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng ông M vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của ông M không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông và cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông M là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bà Th có yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Th là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Th và ông M.
[2] Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Th trình bày, sau khi tìm hiểu nhau về mặt tình cảm thì bà với ông M quyết định thành vợ chồng. Ông bà có tổ chức lễ cưới 09/9/2002 âm lịch và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M1, thành phố L, tỉnh An Giang vào ngày 16/9/2004,. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cách sống, tính tình vợ chồng không phù hợp nên cả hai thường xuyên cự cãi nhau. Chứng minh cho lời trình bày trên, bà Tcó cung cấp cho Tòa án Giấy chứng nhận kết hôn số 218/MX, Quyển số 02/2004 ngày 16/9/2004 của UBND phường M1, thành phố L, tỉnh A cấp cho ông Lê Văn M và bà Nguyễn Hà Th; Giấy khai sinh của con chung Lê Nguyễn Thanh N, sinh ngày 03/10/2004. Như vậy, bà Th đã thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngược lại, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng ông M vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa, không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, lời trình bày và chứng cứ mà bà Th cung cấp là cơ sở để Tòa án xác định hôn nhân giữa bà Tvà ông M là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận nhưng vì mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn làm cho vợ chồng không còn chung sống, không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau kể từ tháng 8 năm 2018 đến nay là có thật; cho thấy ông bà đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Th có yêu cầu được ly hôn ông M là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận.
Về quan hệ con chung: Bà Th xác định quá trình chung sống, bà với ông M có một con chung tên Lê Nguyễn Thanh N, sinh ngày 03/10/2004. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn chung sống cho đến nay, con chung sống cùng mẹ là bà Th; dưới sự chăm sóc, giáo dục của bà Th thì em N sinh sống ổn định và phát triển bình thường, cho thấy bà Th có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục em N. Do đó, việc bà Th yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung là phù hợp với nguyện vọng của em N và hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn, ông M vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Th không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.
Về quan hệ tài sản chung: Bà Th trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; vì vậy Tòa án không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này các bên chứng minh vợ chồng có tài sản chung trong thời hôn nhân mà không tự thỏa thuận phân chia được thì có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn ở vụ án dân sự khác.
Về quan hệ nợ chung: Bà Th trình bày vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Tòa án cũng không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này có bên thứ ba bất kỳ chứng minh được nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Th vẫn phải cùng ông M liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí: Bà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Th đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002791 ngày 28/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh An Giang. Ông M không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; Điều 54; khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 58, Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Nguyễn Hà Th được ly hôn với ông Lê Văn M.
Giấy chứng nhận kết hôn số 218/MX, Quyển số 02/2004 ngày 16/9/2004 của Ủy ban nhân dân phường M 1, thành phố L, tỉnh An Giang cấp cho ông Lê Văn M và bà Nguyễn Hà Th không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung: Giao con chung Lê Nguyễn Thanh N, sinh ngày 03/10/2004 cho bà Nguyễn Hà Th được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con chung thành niên, trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định pháp luật. Ông Lê Văn M không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Th không yêu cầu.
Bà Nguyễn Hà Th cùng các thành viên trong gia đình phải tạo điều kiện cho ông Lê Văn M được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cấm. Việc nuôi con chung không cố định. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng cho con.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Hà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002791 ngày 28/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh An Giang. Ông Lê Văn M không phải chịu án phí.
Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 161/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 161/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về