Bản án 161/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 161/2019/HS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 158/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đào Văn Q, sinh ngày 05 tháng 10 năm 1992 tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Xóm 5, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn T và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 84/2017/HSST ngày 17/3/2017 Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 15 tháng tù, hình phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/3/2018, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung; bị bắt tạm giữ ngày 05/6/2019; tạm giam từ ngày 08/6/2019 2019 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

2. Bùi Xuân L, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1994 tại tỉnh Thái Nguyên; i cư trú: Xóm 5, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Ngọc H và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ ngày 05/6/2019; tạm giam từ ngày 08/6/2019 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Lương Văn L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 05/6/2019, Tổ công tác Công an phường V, thành phố L đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường P thuộc khối 1, phường V, thành phố L, phát hiện Đào Văn Q và Bùi Xuân L có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Qua kiểm tra phát hiện Bùi Xuân L thả 02 gói giấy nhỏ từ bàn tay trái xuống mặt đường; kiểm tra 02 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã ra quyết định trưng cầu giám định tang vật thu giữ của Đào Văn Q và Bùi Xuân L. Tại kết luận giám định số 205/KL- PC09 ngày 08/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy thu giữ của Đào Văn Q và Bùi Xuân L gửi giám định là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,198 gam.

Ti Cơ quan điều tra, Đào Văn Q và Bùi Xuân L khai nhận: Bản thân Q và L sử dụng chất ma túy Heroine từ năm 2016 đến nay. Khoảng đầu năm 2019, Q và L cùng nhau sang Trung Quốc làm thuê. Đến ngày 05/6/2019, Bùi Xuân L, Đào Văn Q cùng nhau qua đường mòn từ Trung Quốc về Việt Nam. Khoảng 12 giờ ngày 05/6/2019, L và Q về đến cửa khẩu C, huyện L rồi bắt xe khách về thành phố L. Khoảng 13 giờ cùng ngày, L và Q đến khu vực chợ Đ, phường V, thành phố L, Q nói với L “anh em mình làm tý nhỉ”, L hiểu ý Q nói là sử dụng ma túy Heroine nên L đồng ý. Tại khu vực gần chợ Đ, cả hai gặp 01 người đàn ông làm nghề xe ôm, Q hỏi người lái xe ôm có biết chỗ nào bán ma túy không thì được người này đưa đến một quán nước ở khu vực cổng chợ Đ rồi bỏ đi. Tại quán nước, Q và L gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi ( L và Q không rõ danh tính). Người đàn ông hỏi Q “mua bao nhiêu”, Q trả lời “mua ba trăm” (tức 300.000 đồng tiền ma túy). Q trực tiếp đưa 300.000 đồng cho người đàn ông đó; số tiền này trước đó L và Q đã góp chung để chi tiêu ăn uống trên đường từ cửa khẩu C về thành phố L. Sau khi nhận tiền từ Q, người đàn ông này rời đi khoảng 2 – 3 phút sau đó quay lại đưa cho Q 02 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng. Q đưa cho L 01 gói để L kiểm tra, L mở gói giấy để kiểm tra đúng là chất ma túy Heroine nên bảo Q đưa nốt gói giấy chứa chất ma túy còn lại cho L cất giấu trong lòng bàn tay trái; sau đó cả hai cùng thuê anh Lương Văn L, sinh năm 1982, trú tại: Thôn Y 2, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn làm nghề xe ôm chở đi tìm nơi sử dụng ma túy. Anh Lương Văn Luân chở L và Q đến khu vực đường P, phường V, thành phố L thì bị Tổ công tác Công an phường V bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; do hoảng sợ, Bùi Xuân L thả 02 gói ma túy đang cầm trong lòng bàn tay trái xuống nền đất cạnh vị trí L và Q đang đứng; lực lượng Công an đã kịp thời thu giữ 02 gói ma túy.

Cáo trạng số 161/CT-VKSTP ngày 16 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Đào Văn Q và Bùi Xuân L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Q định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đào Văn Q từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Xuân L từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 05/6/2019, tại khu vực đường P, thuộc khối 1, phường V, thành phố L, Tổ công tác Công an phường V, thành phố L bắt quả tang Đào Văn Q và Bùi Xuân L có hành vi tàng trữ 02 gói giấy chứa chất bột màu trắng. Kết quả giám định kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Đào Văn Q và Bùi Xuân L là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,198 gam. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 161/CT-VKS ngày 16 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo về điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật.

[3] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn; giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, câu kết chặt chẽ với nhau. Hậu quả của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của các bị cáo trong vụ án cùng gây ra.

[5] Đối với Bùi Xuân L: Bị cáo không tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy cần xem xét cho bị cáo hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Đối với Đào Văn Q: Bị cáo không có tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét cho bị cáo được hưởng. Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 84/2017/HSST ngày 17/3/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 15 tháng tù, hình phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung; căn cứ khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự bị cáo chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo tái phạm, nên bị cáo phải chịu mức án cao hơn bị cáo Bùi Xuân L.

[7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân; cần cách ly các bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội. Như vậy mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 29/7/2019 xác định các bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[13] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đào Văn Q và Bùi Xuân L tại quán nước ở khu vực cổng chợ Đ do Đào Văn Q và Bùi Xuân L không biết nhân thân, lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ, xác minh, xử lý trong vụ án.

[14] Đối với Lương Văn L làm nghề lái xe ôm, khi điều khiển xe mô tô chở Đào Văn Q và Bùi Xuân L không biết Đào Văn Q và Bùi Xuân L tàng trữ trái phép chất ma túy trong người, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với Lương Văn L trong vụ án này.

[15] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đào Văn Q. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Xuân L. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Đào Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2019.

- Xử phạt bị cáo Bùi Xuân L 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2019 Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong.

(Vt chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17 tháng 9 năm 2019).

4. Về án phí: Các bị cáo Đào Văn Q và Bùi Xuân L mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:161/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về