Bản án 161/2019/HN&GĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN DÂN NHÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 161/2019/HN&GĐ-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 109/2019/TLST-HN&GĐ ngày 19/4/2019 vụ án "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng T, sinh năm: 1989.

Địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã T, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Trung K, sinh năm: 1986.

Địa chỉ cư trú: Ấp 2, xã T, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/3/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị Hồng T trình bày: Vào năm 2011 chị và anh Huỳnh Trung K kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 07/6/2011 tại Ủy ban nhân xã Long Trị, huyện Long Mỹ (cũ), tỉnh Hậu Giang, nay là Ủy ban nhân dân xã Long Trị, thị xã Long Mỹ, Hậu Giang, hôn nhân do chị và anh K tự nguyện. Chị và anh K chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không còn phù hợp, bất đồng quan điểm. Chị và anh K đã ly thân từ tháng 04/2014 đến nay.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không thể hàn gắn được nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh K.

Về con chung: Có một con chung tên Huỳnh Lê Ngọc T (nữ), sinh ngày 28/12/2013, con chung hiện nay do chị nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Huỳnh Trung K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị T.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với chị T: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay chị T đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70,71 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với anh K chưa hiện đúng quy định tại Điều 70,72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung kiểm sát viên đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị Hồng T. Cho chị Lê Thị Hồng T được ly hôn với anh Huỳnh Trung K.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu Huỳnh Lê Ngọc T (nữ), sinh ngày 28/12/2013 cho chị Lê Thị Hồng T nuôi dưỡng. Chị T chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên chưa xem xét. Dành quyền thăm nom chăm sóc con chung cho anh K không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đương sự phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn anh Huỳnh Trung K đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt anh K.

[2] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng T và anh Huỳnh Trung K kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 07/6/2011 tại Ủy ban nhân xã Long Trị, huyện Long Mỹ (cũ), tỉnh Hậu Giang, nay là Ủy ban nhân dân xã Long Trị, thị xã Long Mỹ, Hậu Giang theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh K là hợp pháp được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Chị T và anh K chung sống hạnh phúc đến tháng 04/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn tại phiên tòa chị T trình bày là do tính tình không còn phù hợp, bất đồng quan điểm, chị và anh K đã ly thân từ tháng 04/2019 đến nay. Từ khi ly thân đến nay chị T không liên lạc được với anh K và anh K cũng không liên lạc với chị. Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh K nhưng tại phiên tòa chị T vẫn cương quyết ly hôn với anh K. Điều đó cho thấy tình nghĩa vợ chồng giữa chị T và anh K không thể hàn gắn được, vợ chồng không còn quan tâm, yêu thương chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chị T và anh K có 01 con chung tên Huỳnh Lê Ngọc T (nữ), sinh ngày 28/12/2013 con chung hiện nay do chị T nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng. Xét thấy cháu Trăm chưa đủ 07 tuổi và hiện nay do chị T nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Trăm cho chị T nuôi dưỡng là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đương sự còn phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, 28, 35, 147, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào Điều 9, 53, 56, 57, 81, 82, 83, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Hồng T. Cho chị Lê Thị Hồng T được ly hôn với anh Huỳnh Trung K.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu Huỳnh Lê Ngọc T (nữ), sinh ngày 28/12/2013 cho chị Lê Thị Hồng T nuôi dưỡng. Chị T chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên chưa xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc con chung cho anh Huỳnh Trung K không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), chuyển 300.000 đồng chị T đã nộp theo biên lai thu số 0021190 ngày 19/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ thành án phí. Chị T đã nộp xong.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn chị Lê Thị Hồng T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 04/9/2019. Bị đơn anh Huỳnh Trung K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HN&GĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:161/2019/HN&GĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về