Bản án 161/2017/HNGĐ-ST ngày 28/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 161/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 133/2017/TLST- HNGĐ ngày 09/10/2017, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2017/QĐXX-ST, ngày 10/11/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông; Đặng Hồng L, sinh năm 1968. Có mặt

Địa chỉ : Xóm Liên Tân, xã TL, huyện TC, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn : Bà; Nguyễn Thị L, sinh năm 1960. Có mặt

Địa chỉ : Xóm Liên Tân, xã TL, huyện TC, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Đặng Hồng L trình bày như sau :

- Về hôn nhân : Ông Đặng Hồng L kết hôn với bà Nguyễn Thị L, vào ngày 03/10/1991 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, do lúc đó 02 người cùng ở trong quân ngũ tại huyện Nam Đàn. Sau khi kết hôn một thời gian thì ông Đặng Hồng L chuyển về Kho CK2 đóng tại xã TS, huyện ĐL, tỉnh Nghệ An. Đến năm 1997 thì bà Nguyễn Thị L chuyển về cùng đơn vị với ông Đặng Hồng L. Năm 2008 thì bà Nguyễn Thị L nghỉ hưu về tại quê ở xã TL, huyện TC. Năm 2012 thì ông Đặng Hồng L nghỉ hưu và vợ chồng về sống tại xã TL. Trong quá trình chung sống vợ chồng cũng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân có nhiều, song cơ bản là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, nên khi ông Đặng Hồng L nghỉ hưu cũng là lúc vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay ông Đặng Hồng L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, nên xin được ly hôn bà Nguyễn Thị L.

- Về trách nhiệm nuôi con : Theo ông Đặng Hồng L vợ chồng có 02 con chung với nhau, tên là Đặng Thị H, sinh ngày  20/4/1992 và cháu Đặng Thị Y, sinh ngày 19/8/1994, cháu Đặng Thị H đã lập gia đình riêng, còn cháu Đặng Thị Y đã tốt nghiệp đại học và đã đi làm ăn ở tỉnh Bạc Liêu. Cho nên hai con đã trưởng thành nên ông không có yêu cầu gì.

- Về chia tài sản chung : Ông Đặng Hồng L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn là bà Nguyễn Thị L trình bày như sau :

- Về hôn nhân : Ông Đặng Hồng L trình bày như vậy là đúng, hai người kết hôn với nhau vào ngày 26/8/1991 âm lịch trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, do lúc đó 02 người cùng ở trong quân ngũ tại huyện Nam Đàn. Sau khi kết hôn một thời gian thì ông Đặng Hồng L chuyển về Kho CK2 đóng tại xã TS, huyện ĐL, tỉnh Nghệ An. Đến năm 1997 thì bà chuyển về cùng đơn vị với ông Đặng Hồng Loan. Năm 2008 thì bà nghỉ hưu về tại quê ở xã Thanh Liên, huyện Thanh Chương. Đến năm 2012 thì ông Đặng Hồng Loan nghỉ hưu và vợ chồng về sống tại xã TL, huyện TC. Trong quá trình chung sống vợ chồng cũng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân có nhiều, song cơ bản là do từ trước khi nghỉ hưu ông Đặng Hồng L có quan hệ với người khác và đã có con riêng nên về mới xin ly hôn bà. Nay ông Đặng Hồng L xin ly hôn, bà không nhất trí. Tuy rằng vợ chồng không còn tình cảm nữa, vì hai người đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay, việc bà muốn níu kéo là để cho con cái có một gia đình, còn ông Đặng Hồng L muốn đi đâu thì tùy.

- Về trách nhiệm nuôi con : Vợ chồng có 02 con chung với nhau, tên là Đặng Thị H, sinh ngày 20/4/1992 và cháu Đặng Thị Y, sinh ngày 19/8/1994, cháu H đã lập gia đình riêng, còn cháu Y đã tốt nghiệp đại học và đã đi làm ăn ở tỉnh Bạc Liêu. Nay các cháu đã trưởng thành nên bà không có ý kiến hay yêu cầu gì.

- Về chia tài sản chung : Bà Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến : Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử cho ông Đặng Hồng L được ly hôn bà Nguyễn Thị L; về con cái đã trưởng thành nên không xem xét; tài sản các bên không có yêu cầu gì nên không xem xét; ông Đặng Hồng L phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định :

[1] Cuộc hôn nhân giữa ông Đặng Hồng L và bà Nguyễn Thị L, được xác lập trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 30/10/1991 tại UBND xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bởi lúc đó hai người đều ở trong quân ngũ và đóng quân tại xã Nam Anh, huyện Nam Đàn. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống tại đơn vị ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, được khoảng 02 năm thì ông Đặng Hồng L chuyển về đơn vị mới là Kho CK2, đóng tại xã TS, huyện ĐL, tỉnh Nghệ An, đến năm 1997 thì bà Nguyễn Thị L cũng chuyển về đơn vị cùng với ông Đặng Hồng L. Trong quá trình chúng sống vợ chồng cũng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, năm 2008 thì bà Nguyễn Thị Lý nghỉ hưu về quê nhà sinh sống, năm 2012 thì ông Đặng Hồng L cũng nghỉ hưu và cũng chính từ đó vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án cũng triệu tập nhiều lần để hòa giải, nhưng ông Đặng Hồng L thì nhất quyết xin ly hôn, còn bà Nguyễn Thị L thì xin được đoàn tụ để nuôi dạy con cái, tuy vợ chồng không còn tình cảm nữa, việc bà muốn níu kéo là để cho các con có một gia đình. Điều đó chứng tỏ tình trạng vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc xin ly hôn của ông Đặng Hồng L, là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận cho ông Đặng Hồng L được ly hôn bà Nguyễn Thị L.

[2] Về trách nhiệm nuôi con : Hai người có 02 con chung với nhau, tên là Đặng Thị H, sinh ngày 20/4/1992 và cháu Đặng Thị Y, sinh ngày 19/8/1994, các con đã thành niên và lập gia đình riêng, nên không xem xét.

[3] Về chia tài sản chung : Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết phần tài sản.

[4] Về án phí : Ông Đặng Hồng L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào : Khoản 1 Điều 28; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51; 56 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử :

1. Về hôn nhân : Cho ông Đặng Hồng L được ly hôn bà Nguyễn Thị L.

2. Về trách nhiệm nuôi con : Hai người có 02 con chung với nhau, tên là Đặng Thị Hn, sinh ngày 20/4/1992 và cháu Đặng Thị Y, sinh ngày 19/8/1994, các con đã thành niên và lập gia đình riêng, nên Tòa án không xem xét

3. Về chia tài sản chung : Tòa án không xem xét.

4. Về án phí : Ông Đặng Hồng L : 300 ( Ba trăm ngàn đồng

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2017/HNGĐ-ST ngày 28/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:161/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về