Bản án 160/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 160/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16/7/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 173/2020/TLST-HS ngày 05/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2020/QĐXXST-HS ngày 03/7/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đức Tuấn A - Sinh năm 1997. HKTT: thôn Đ, xã N, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Dân tộc: Kinh, Quốc tịch: Việt Nam, Tôn giáo: Không; giới tính: Nam Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Đức Đ, sinh 1974 và bà Nguyễn Thị H, sinh 1974.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020 đến ngày 04/4/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Bùi Thanh H - Sinh năm 2000.

HKTT: khu phố Đ, phường Đ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Dân tộc: Kinh, Quốc tịch: Việt Nam, Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ Trình độ học vấn: 8/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Bùi Nhật N, sinh năm: 1971 và bà Nguyễn Thị H,Sinh năm: 1971. Chồng: không có.

Con: 01 con sinh năm 2018. Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020 đến ngày 04/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn. Hiện tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại : Nguyễn Thế Q, sinh 2000 (vắng mặt) HKTT: Thôn Đ, xã N, Tiên Du, Bắc Ninh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Anh Chu Văn H, sinh 2001 (vắng mặt) TQ: Khu phố P, phường Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức Tuấn A và Nguyễn Thế Q có quan hệ bạn bè quen biết nhau. Khoảng 15 giờ ngày 29/3/2020, Tuấn A thuê máy tính tại quán Internet JK ở thị xã Từ Sơn nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho Anh Q hỏi mượn xe mô tô để chở bạn gái là Bùi Thanh H đi tìm phòng trọ. Anh Q đồng ý. Khoảng 15 phút sau, Anh Q điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát (BKS): 99B1-321.76 ra đoạn Dốc Tè, thôn Đình Cả, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, đón Tuấn A và H. Sau đó, Tuấn A điều khiển xe mô tô BKS: 99B1- 321.76 chở Anh Q và H đi tìm phòng trọ. Khi đi đến khu phố Phú Điền, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, Tuấn A bảo Anh Q xuống xe đứng đợi để Tuấn A đi mượn tiền bạn đổ xăng và tìm phòng trọ. Anh Q tin tưởng bạn bè nên giao xe mô tô của mình cho Tuấn A để tiếp tục chở H đi tìm phòng trọ.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Tuấn A và H vẫn chưa tìm được phòng trọ. Do cần tiền để chi tiêu cá nhân nên Tuấn A có hỏi H biết chỗ nào cắm xe để vay tiền không? H bảo có biết chỗ cắm xe nên cả hai mang xe mô tô của Anh Q đi cầm cố để lấy tiền. Sau đó, Tuấn A điều khiển xe mô tô chở H đến trước cửa phòng trọ của anh Nguyễn Công Thắng, sinh năm 1995, trú tại: khu phố Xuân Thụ, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi đến nơi, Tuấn A giao chiếc xe mô tô của Anh Q cho H, còn Tuấn A đi bộ ra gần đó đứng đợi. H mang xe mô tô vào gặp anh Thắng đặt vấn đề cầm cố xe mô tô vay tiền. Anh Thắng không nhận cầm cố xe mô tô. H nhờ Thắng tìm người cầm cố xe mô tô giúp. Anh Thắng gọi điện thoại báo cho anh Chu Văn H. Khoảng 15 phút sau, Hiếu đến phòng trọ của anh Thắng gặp H. Hiếu không nhận cầm cố xe mô tô nhưng do H nói cần tiền gấp, muốn vay tiền tiền gấp rồi trả ngay chỉ để xe lại làm tin nên Hiếu đồng ý cho H vay số tiền 2.700.000 đồng. Sau đó, H giao cho Hiếu chiếc xe mô tô BKS: 99B1-321.76. H và Tuấn A cùng chi tiêu số tiền 2.700.000 đồng kể trên, không có khả năng chuộc lại xe để trả cho Anh Q. Anh Q đã làm đơn trình báo sự việc đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã Từ Sơn.

Ngày 01/4/2020, H cùng Tuấn A đến đầu thú tại Cơ quan CSĐT Công an thị xã Từ Sơn, khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, bị cáo H đã tự nguyện nộp 291.000đ cho cơ quan điều tra. Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo, anh Chu Văn H cũng tự giao nộp chiếc xe mô tô BKS: 99B1-321.76.

Tại bản Kết luận định giá số 13/KL-HĐĐG ngày 03/4/2020 xác định: trị giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu: HONDA AIR BLADE, BKS: 99B1-321.76, sơn màu đen, bạc tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 29/3/2020 là: 18.000.000 đồng.

Với hành vi trên tại bản Cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 31/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức Tuấn A và Bùi Thanh H ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Tuấn A và bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng, nay bị truy tố, xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không có oan sai gì.

Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Thế Q, anh Chu Văn H vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra đã có lời khai đầy đủ. Chiếc xe HONDA AIR BLADE, BKS: 99B1-321.76 là của bố Anh Q, bố Anh Q đã nhận lại chiếc xe trên, không có yêu cầu bồi thường gì; anh H yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền anh H cho vay còn nợ là 2.409.000đ Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố giữ nguyên bản Cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 31/5/2020. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức Tuấn A, Bùi Thanh H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Đức Tuấn A từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/4/2020.

Bùi Thanh H từ 11 đến 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 01/4/2020 đến ngày 04/4/2020.

Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 466, 469 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Tuấn A, H có trách nhiệm liên đới trả cho anh H số tiền 2.409.000đ, mỗi bị cáo phải trả anh H 1.204.500đ.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Tại lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào nghị án, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với đơn trình báo của người bị hại, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/9/2020 tại khu đô thị Phú Điền, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Đức Tuấn A và Bùi Thanh H có hành vi mượn mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu: HONDA AIR BLADE, màu: đen, bạc; BKS: 99B1- 321.76 của anh Nguyễn Thế Q trị giá 18.000.000 đồng. Sau đó, do không có tiền ăn tiêu nên Tuấn và H đã mang xe mô tô đem đi cầm cố được 2.700.000 đồng. Số tiền này Tuấn A và H đã dùng chi tiêu cá nhân.

Do vậy, VKSND thị xã Từ Sơn đã truy tố bị cáo Tuấn A và H về tội “Lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của các bị cáo không những gây thiệt hại về mặt vật chất cho người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, tạo tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung với xã hội.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Các bị cáo được xác định là người chưa có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo Tuấn A là đối tượng có sử dụng trái phép chất ma túy, không có nghề nghiệp, chỗ ở ổn định. Bị cáo H mặc dù đang nuôi con nhỏ nhưng thường xuyên không có mặt tại nơi cư trú, đi đâu không thông báo cho chính quyền địa phương.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi vi phạm đã ra cơ quan công an đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Xét về vai trò của các bị cáo thì thấy trước khi phạm tội, hai bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ nên hành vi phạm tội của các bị cáo không có tính tổ chức. Bị cáo Tuấn A là người khởi xướng việc mang xe của Anh Q đi cầm cố lấy tiền tiêu xài nên xác định vai trò của bị cáo Tuấn A là cao hơn bị cáo H.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn là có căn cứ và phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Do các bị cáo không có tài sản gì, nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: số tiền bị cáo H, Tuấn A vay của anh H chưa trả là 2.409.000đ nên cần buộc các bị cáo có trách nhiệm liên đới trả cho anh H số tiền 2.409.000đ, mỗi bị cáo phải trả là 1.204.500đ là phù hợp Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda HONDA AIR BLADE, BKS: 99B1- 321.76 cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu là ông Đồng (bố Anh Q), ông Đồng không có yêu cầu bồi thường gì.

Liên quan trong vụ án còn có: Anh Nguyễn Công Thắng là người gọi anh Chu Văn H để cho H để vay tiền, để lại xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIR BLADE, màu: đen, bạc; BKS: 99B1-321.76 để làm tin. Quá trình điều tra xác định anh Thắng và anh H không biết chiếc xe mô tô kể trên do Tuấn A và H phạm tội mà có. Do vậy Cơ quan điều tra đã giáo dục, nhắc nhở anh Thắng và anh H là đúng quy định.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức Tuấn A và Bùi Thanh H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 329 (đối với bị cáo Tuấn A), khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 466, 469 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH Khóa 14 về thu nộp án phí, lệ phí.

Xử phạt: Nguyễn Đức Tuấn A 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/4/2020 Bùi Thanh H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 01/4/2020 đến ngày 04/4/2020.

Tạm giam bị cáo Nguyễn Đức Tuấn A 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Tuấn A và bị cáo H phải có nghĩa vụ liên đới trả anh H 2.409.000đ, mỗi bị cáo phải trả 1.204.500đ (Một triệu hai trăm linh bốn nghìn năm trăm đồng).

Về án phí: Bị cáo Tuấn A, H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:160/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về