TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 160/2019/HN-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH H
Trong ngày 28 tháng 8 năm 2098 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 377/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2019/QĐXX-ST ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị LÊ THỊ KIM L, sinh năm 1984.
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Anh NGUYỄN VĂN H, sinh năm 1982.
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
(Chị L xin vắng mặt, anh H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai chị Lê Thị Kim L trình bày: Chị và anh H do quen biết và tiến đến hôn nhân năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẩn do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường hay cãi vả và đã ly thân từ tháng 6/2018 đến nay.
Con chung: Anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Tấn K, sinh ngày 06/9/2006, Nguyễn Tấn Kh sinh ngày 11/10/2011 hiện đang sống cùng chị L.
Tài sản chung, nợ chung: Không có Chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Con chung chị yêu cầu nuôi cháu Nguyễn Tấn Kh, giao cho anh H nuôi cháu Nguyễn Tấn K không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.
- Bị đơn anh Nguyễn Văn H dù được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng và được triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia tố tụng, không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định pháp luật Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Ngày 17/7/2019 chị L có đơn xin giải quyết vắng mặt với lý do chị làm công nhân việc xin nghỉ rất khó khăn. Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn H dù được triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điều 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự xét vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy chị L và anh H tiến đến hôn nhân năm 2005 trên cơ sở có sự tìm hiểu nhau trước nhưng sau khi cưới nhau anh chị chỉ chung sống được thời gian thì phát sinh mâu thuẩn và ly thân từ tháng 6/2018 đến nay không ai qua lại với ai hay tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình Tòa án tiến hành hòa giải giữa 02 bên, anh H dù được Tòa án triệu tập cũng không đến và cũng không có ý kiến gì về việc chị L xin ly hôn, phía chị L vẫn kiên quyết ly hôn vì tình cảm không còn. Cũng theo xác nhận của ban quản lý ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang không nắm rõ nguyên nhân mâu thuẩn vợ chồng anh chị. Từ đó cho thấy tình cảm vợ chồng của anh chị không còn, quan hệ hôn nhân thật sự đỗ vỡ, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu cho chị L được ly hôn anh H là phù hợp điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Tấn K và Nguyễn Tấn Kh.
Theo xác nhận của ban quản lý ấp A, xã B thì hiện tại cháu Kh đang sống cùng chị L, còn cháu K sống chung với ông nội. Tuy chị L xin vắng mặt trong phiên tòa xét xử nhưng trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án chị có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Tấn Kh, giao cháu Nguyễn Tấn K cho anh H nuôi. Tại các văn bản ý kiến của mình cháu Kh cũng muốn sống với chị L, còn cháu K muốn sống với anh H và ông bà nội. Xét thấy con chung được chị L, anh H chia nhau chăm sóc, nuôi dưỡng từ lúc anh chị ly thân đến nay các cháu vẫn được đi học và phát triển bình thường, anh H cũng không có ý kiến gì về việc chị L yêu cầu mỗi người nuôi một con nếu anh chị ly hôn. Do đó để tránh xáo trộn tâm sinh lý của con chung Hội đồng xét xử xem xét tiếp tục giao cháu Nguyễn Tấn Kh cho chị L nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Tấn K cho anh H nuôi dưỡng là phù hợp điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu ly hôn được chấp nhận theo qui định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điều 147, 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Lê Thị Kim L.
1. Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị Kim L được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.
2. Về con chung: Tiếp tục giao cho chị Lê Thị Kim L được quyền nuôi cháu Nguyễn Tấn Kh, sinh ngày 11/10/2011.
Giao cho anh Nguyễn Văn H được quyền nuôi cháu Nguyễn Tấn K, sinh ngày 06/9/2006.
Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.
Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo qui định pháp luật.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
4. Về án phí:
- Chị Lê Thị Kim L phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST. Chị đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 10360 ngày 06/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè xem như thi hành xong.
5. Về thời hạn kháng cáo: Chị L, anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án 160/2019/HN-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn giữa chị L và anh H
Số hiệu: | 160/2019/HN-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | đang cập nhật |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về