TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 160/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 433/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019 về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 478/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Phạm V U, sinh năm 1987 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố C, tỉnh C.
Bị đơn: Chị Thị T C, sinh năm 1988 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố C, tỉnh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/5/2019 nguyên đơn anh Phạm V U trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Thị T C chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2008 nhưng đến năm 2011 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã xã H, thành phố C, tỉnh C, hôn nhân tự nguyện. Nguyên nhân mâu thuẫn là trong thời gian chung sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể đoàn tụ được, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau do bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy, vợ chồng không còn yêu thương nhau nên đời sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, ly thân từ tháng 9/2018 cho đến nay nên anh yêu cầu được ly hôn với chị C.
Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Phạm T Đ (nam), sinh ngày 01/10/2008, hiện nay đang sống chung với anh. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh U xác định không có.
Đối với bị đơn chị Thị T C: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ để hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử nhưng chị C vẫn vắng mặt không lý do.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Thị T C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị C theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Anh Phạm V U và chị Thị T C tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2008 nhưng đến năm 2011 mới tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố C, tỉnh C. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh U và chị C được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp và bảo vệ.
Tại phiên tòa, anh U xác định không còn tình cảm yêu thương chị C, hôn nhân không còn hạnh phúc. Đồng thời, anh U thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với chị C và khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 9/2018 cho đến nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh U được ly hôn với chị C.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Phạm T Đ (nam), sinh ngày 01/10/2008. Khi ly hôn anh U yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con. Thấy rằng, từ khi anh U và chị C ly thân với nhau đến nay thì con chung vẫn do anh U trực tiếp nuôi dưỡng, nguyện vọng của cháu Đ là được sống cùng với anh U. Do đó, để đảm bảo cho cháu Đ được ổn định về cuộc sống nên cần giao con chung cho anh U tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị C không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh U xác định không có.
[5] Về án phí: Anh U phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng: Điều 51, 56 và 58 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Phạm V U được ly hôn với chị Thị T C.
2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm T Đ (nam), sinh ngày 01/10/2008 cho anh U trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị C không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở 3. Về tài sản chung, nợ chung: Anh U xác định không có.
4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh U phải chịu 300.000 đồng. Ngày 15/5/2019 anh U đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0000120 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh C, được chuyển thu đối trừ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.
Bản án 160/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 160/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về