TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 160/2018/HS-ST NGÀY 16/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2018/HSST ngày 17 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST- HS ngày 03/10/2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh K; giới tính: Nam; sinh ngày: 16/11/1987; nơi sinh: Thôn T, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; con ông Nguyễn Xuân N (đã chết) và bà Đặng Thị H, sinh năm 1963; gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 293 QĐ/XPVPHC ngày 21/11/2006 của Công an huyện V, tỉnh Thái Bình, xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (đã nộp phạt ngày 22/11/2006); quyết định số 1678 ngày 11/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình đưa vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội thành phố T, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 25/6/2011; quyết định số 7896 ngày 18/9/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình đưa vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Thái Bình, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 20/9/2013; bản án số 23/2014/HSST ngày 1 20/5/2014 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2016. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/6/2018 đến ngày 26/6/2018 chuyển tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.
- Người chứng kiến:
1. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1958, trú tại: Số nhà 56, tổ 12, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
2. Ông Phạm Hồng Q, sinh năm 1965, trú tại: Số nhà 484, tổ 10, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/6/2018, Nguyễn Thanh K đi xe ôm một mình từ xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình đến khu vực tổ 50, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, K gặp và mua của một người nam giới, khoảng 30 tuổi (không biết tên và địa chỉ) một túi ma túy đá với giá 300.000 đồng, cầm trong lòng bàn tay phải và đi bộ tìm nơi để sử dụng. Khi K đi đến khu vực tổ 04, phường Đ, thành phố T thì bị tổ công tác Công an phường Đ, thành phố T phát hiện yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của người chứng kiến là ông Phạm Hồng Q và ông Nguyễn Xuân T, K đã tự giác giao nộp từ lòng bàn tay phải của K một túi nilon trong suốt bên trong có chứa chất tinh thể trong suốt, K khai đó là ma túy đá vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, yêu cầu K và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Đ, thành phố T để làm việc. Tại đây, tổ công tác kiểm tra người K, thu giữ tại túi quần bên trái của K 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu đen, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì thêm. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.
Bản kết luận giám định số 269/KLGĐ - PC54 ngày 23/6/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Thanh K là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3981 gam (không phảy ba nghìn chín trăm tám mươi mốt gam).
Cáo trạng số 157/CT-VKSTP ngày 14/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Nguyễn Thanh K về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh K mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2018.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.
+ Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu đen đã cũ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thanh K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Đ, thành phố T lập hồi 13 giờ 30 phút ngày 23/6/2018 (bút lục số 03 - 04); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục số 05); bản kết luận giám định số 269/KLGĐ-PC54 ngày 23/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 11); bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là ông Nguyễn Xuân T và ông Phạm Hồng Q (bút lục số 34 - 43). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 23/6/2018, tại khu vực khu vực tổ 04, phường Đ, thành phố T, Nguyễn Thanh K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3981 gam (không phẩy ba nghìn chín trăm tám mươi mốt gam) ma tuý, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. a)…c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.
[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV-AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Nguyễn Thanh K có nhân thân rất xấu, đã 01 lần bị kết án, 02 lần bị đưa vào cơ sở cai nghiện, 01 lần bị xử phạt hành chính. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo K khai mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ ở khu vực tổ 50, phường Q, thành phố T nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. [8] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50; điều 46; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106; điều 135; điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
1. Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Thanh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2018.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 269/KLGĐ-PC54.
3.2. Trả lại bị cáo Nguyễn Thanh K 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu đen đã cũ nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
(Các vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 14/9/2018).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh K phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/10/2018.
Bản án 160/2018/HS-ST ngày 16/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 160/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về