Bản án 159/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 159/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 432/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019 về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 477/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị M T, sinh năm 1989 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh S.

Bị đơn: Anh Nguyễn V T, sinh năm 1989 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 0, LHP, k, p, thành phố C, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/5/2019 nguyên đơn chị Phan Thị M T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn V T kết hôn với nhau vào năm 2013 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân p, thành phố C, tỉnh C, hôn nhân tự nguyện. Nguyên nhân mâu thuẫn là trong thời gian chung sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể đoàn tụ được, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Nhận thấy, vợ chồng không còn yêu thương nhau nên đời sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Nguyễn G H (nam), sinh ngày 24/02/2014, hiện nay đang sống chung với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có.

Đi với bị đơn anh Nguyễn V T: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ để hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn V T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Phan Thị M T và anh Nguyễn V T tự nguyện kết hôn vào năm 2013 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân p, thanh phố C, tỉnh C. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp và bảo vệ.

Tại phiên tòa, chị T xác định không còn tình cảm yêu thương anh T, hôn nhân không còn hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Chị T mong muốn được ly hôn với anh T và khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Nguyễn G H (nam), sinh ngày 24/02/2014. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Thấy rằng, từ khi chị T và anh T ly thân với nhau đến nay thì con chung vẫn do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Để đảm bảo cho con chung được ổn định về cuộc sống nên cần giao con chung cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh T không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng: Điều 51, 56 và 58 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phan Thị M T được ly hôn với anh Nguyễn V T.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn G H (nam), sinh ngày 24/02/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh T không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng. Ngày 15/5/2019 chị T đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0000121 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh C, được chuyển thu đối trừ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:159/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về