Bản án 159/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 159/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 523/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Mai X, sinh năm 1996

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Lê Hoàng P, sinh năm 1995

Địa chỉ: số D, khu vực E, thị trấn Đ, huyện H, tỉnh Long An.

(Các đương sự đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Mai X trình bày:

Do quen biết và được gia đình đồng ý nên bà Huỳnh Thị Mai X với ông Lê Hoàng P xác lập quan hệ vợ chồng, có tổ chức lễ cưới; có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện H vào năm 2015. Sau khi cưới vợ chồng sống tại thị trấn Đ, huyện H cho đến năm 2017. Đời sống chung vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, nhưng đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cãi vã do ông P chơi cờ bạc, nghiện ngập, không chăm sóc gia đình; vợ chồng bất đồng quan điểm sống; vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Bà X yêu cầu Tòa án cho ly hôn với ông P.

Về con chung: Bà X với ông P có 01 con chung tên Lê Huỳnh Như Y, sinh ngày 18/12/2017; hiện nay bà X đang nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn bà X yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con; không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Đương sự xác định không có nợ chung với ông P.

Bị đơn ông Lê Hoàng P có văn bản ghi ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện nguyên đơn như sau:

Ông P thống nhất lời trình bày của bà X về việc xác lập quan hệ vợ chồng, có đăng ký kết hôn và thừa nhận đời sống chung vợ chồng có mâu thuẫn nhưng bà X yêu cầu ly hôn thì ông P không đồng ý vì con chung còn nhỏ và bà X đang mang thai nên ông P muốn đoàn tụ với vợ.

Về con chung: Bà X với ông P có 01 con chung tên Lê Huỳnh Như Y, sinh ngày 18/12/2017; hiện nay bà X đang nuôi dưỡng. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà X thì ông P đồng ý để bà X tiếp tục nuôi con; ông P không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Toà án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng bị đơn có đơn đề nghị vắng mặt nên vụ án không hòa giải được và Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Ti phiên toà, nguyên đơn bà X, ông P đều vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tố tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Huỳnh Thị Mai X khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Hoàng P. Căn cứ theo Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tố tụng là “tranh chấp ly hôn”, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An theo thủ tục sơ thẩm.

[2] Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Mai X và bị đơn ông Lê Hoàng P đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hợp lệ. Căn cứ theo Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Theo Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thì nguyên đơn bà X yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về tình cảm vợ chồng; nuôi con chung; không yêu cầu cấp dưỡng; không tranh chấp về tài sản chung và thừa nhận không có nợ chung với bị đơn. Bị đơn ông P không có yêu cầu phản tố trong vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chỉ xem xét đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và giải quyết hậu quả theo quy định pháp luật.

[4] Theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 102/2015 ngày 29/9/2015 của UBND thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa và sự thừa nhận của đương sự thì bà X và ông P xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện H vào ngày 29/9/2015 là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ.

[5] Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà X với ông P là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên gây gổ, cải nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay; không ai có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà X với ông P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà X đối với ông P.

[6] Theo Giấy khai sinh số: 365/2017 ngày 21/12/2017 của UBND thị trấn Đ, huyện H và sự thừa nhận của đương sự thì bà X và ông P có 01 con chung tên Lê Huỳnh Như Ý, sinh ngày 18/12/2017; hiện nay bà X đang nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, bà X yêu cầu tiếp tục nuôi con; ông P đồng ý. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần giao cháu Ý cho bà X tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[7] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Bà X không yêu ông P cầu cấp dưỡng nuôi con và ông P cũng không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con nên sau khi ly hôn ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

[8] Về tài sản chung: Đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[9] Về nợ chung: Đương sự trình bày không có nợ chung nên không đề cập.

[10] Về án phí: Bà Huỳnh Thị Mai X phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Căn cứ vào Điều 53, 56, 81, 82, 83, 84 và khoản 1 Điều 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Huỳnh Thị Mai X đối với ông Lê Hoàng P.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Mai X được ly hôn với ông Lê Hoàng P.

Về nuôi con chung: Bà Huỳnh Thị Mai X với ông Lê Hoàng P có 01 con chung tên Lê Huỳnh Như Ý, sinh ngày 18/12/2017. Sau khi ly hôn, bà X được quyền tiếp tục nuôi con.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông Lê Hoàng P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Đương sự trình bày không có nợ chung với nhau.

Về án phí: Bà Huỳnh Thị Mai X phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà X đã nộp theo Biên lai số 0004717 ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí.

Án xử sơ thẩm, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:159/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về