TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 159/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN
Trong ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 355/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp Hôn nhân & Gia đình, ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1982; Cư trú: Tổ 01, ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang (có mặt).
Bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1978; Cư trú: Tổ 01, ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai bà Lê Thị T trình bày: Hôn nhân của bà và ông H là do mai mối được gia đình đồng ý nên tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2003 tại UBND xã K.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian sau thì bất đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân ông H không quan tâm gia đình, bỏ nhà đi thường xuyên không về, bản thân bà phải một mình nuôi con nhỏ không đủ sống phải đi làm thuê nhưng ông H lại ngăn cấm, dùng lời lẽ đe dọa hành hung.
Cuộc sống vợ chồng đã không hạnh phúc từ hai năm nay và đã không còn chung sống với nhau nữa, tình cảm vợ chồng đã không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Văn H.
Về quan hệ con chung: Có 03 con chung tên:
1/ Phạm Văn Y, sinh ngày 03/12/2003;
2/ Phạm Hoài P, sinh ngày 04/9/2009;
3/ Phạm Hoài V, sinh ngày 02/5/2015.
Bà đang nuôi cháu V, ông H nuôi cháu Y và cháu P. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi cháu V, riêng hai cháu Y và cháu P có nguyện vọng được sống chung với ông H, bà đồng ý. Bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung, bà cũng không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong vụ án này kể từ khi thụ lý cho đến khi Tòa án ra thông báo phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thì ông H vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử (HĐXX) nghĩ nên cần tiến hành việc xét xử mà không qua thủ tục hòa giải.
Tại biên bản ghi nhận sự vắng mặt của đương sự và không tiến hành hòa giải được thì bà T vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn; yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu V, đồng ý giao cháu Y và P cho ông H nuôi, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; không yêu cầu giải giải quyết về tài sản chung, nợ chung.
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án.
Biên bản xác minh nơi cư trú của ông H, ông Nguyễn Văn T – Phó Trưởng Công an xã cung cấp: Ông Phạm Văn H có hộ khẩu thường trú tại xã K, huyện A, tỉnh An Giang.
Bà Trình Thị Mỹ L là chị dâu của ông H cung cấp: Hôn nhân của bà T và ông H là do mai mối, được gia đình hai bên đồng ý và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng của ông H, bà T có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cự cải nên ông H lên Bình Dương làm thuê và họ sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Bà T ông H có 03 con chung tên: Phạm Văn Y; Phạm Hoài P; Phạm Hoài V. Bà T đang nuôi cháu V, ông H nuôi cháu Y và cháu P, hàng tháng ông H đều gửi tiền về để hai cháu chi tiêu. Tài sản chung, nợ chung bà không rõ.
Chứng cứ các đương sự cung cấp cho Tòa án được công bố trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay.
Tại phiên toà hôm nay: Bà T giữ nguyên nội dung, yêu cầu đã trình bày, không có yêu cầu bổ sung hay giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ khác.
Ông H vắng mặt lần thứ hai. Do đó, HĐXX nghĩ nên xét xử vắng mặt ông H theo Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị T; Giao cháu V cho bà T nuôi dưỡng; ông H được nuôi hai cháu Y và P cũng phù hợp với nguyện vọng của hai cháu; bà T và ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Hôn nhân của bà T và ông H có đăng ký kết hôn theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Bà T yêu cầu xin được ly hôn, ông H có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang nên yêu cầu xin ly hôn của bà T được Tòa án thụ lý giải quyết phù hợp với quy định tại Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình và các Điều 29, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà T và ông H là do hai bên tự tìm hiểu, cuộc sống chung thường xuyên bất đồng quan điểm, cự cải. Nguyên nhân chủ yếu là ông H không quan tâm gia đình, nhiều lần có lời lẽ đe dọa hành hung, cuộc sống không hạnh phúc nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay.
Sau khi ly thân, gia đình hai bên không hàn gắn tình cảm, bà T và ông H không quan tâm nhau. Tòa án đã tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân của bà T và ông H được biết cuộc sống vợ chồng bà T không hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng.
Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông H không đến dự. Cho thấy, hôn nhân của bà T và ông H đã thật sự mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu xin ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận.
[3] Về quan hệ con chung: Bà T và ông H có 03 con chung tên: 1/ Phạm Văn Y, sinh ngày 03/12/2003; 2/ Phạm Hoài P, sinh ngày 04/9/2009; 3/ Phạm Hoài V, sinh ngày 02/5/2015. Hiện cháu V đang sống chung với bà T và bà T yêu cầu được nuôi cháu V. Còn cháu Y và P đang sống chung với ông H và có nguyện vọng sống chung với ông H sau khi ly hôn, bà T đồng ý.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu V hiện bà T đang nuôi dạy nên cần tiếp tục giao cháu V để bà T nuôi. Riêng hai cháu Y, cháu P hiện đang sống với ông H và có nguyện vọng sống chung với ông H sau khi cha mẹ ly hôn, nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện về mọi mặt cũng như ổn định cuộc sống của các con nên Hội đồng xét xử chấp nhận để cháu Y, cháu P cho ông H tiếp tục nuôi dạy.
Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn cha hoặc mẹ là người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét thấy nghĩ nên công nhận sự tự nguyện của bà T. Riêng ông H vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của ông H về việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Y và cháu P nên không đề cập xem xét giải quyết, nếu ông H có yêu cầu về mức cấp dưỡng sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.
Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:
Bà T và ông H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở nhau trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.
[5] Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 147, Điều 227 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Phạm Văn H.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 408 ngày 24/11/2003 của Ủy ban nhân dân xã K, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Bà T được nuôi cháu Phạm Hoài V, sinh ngày 02/5/2015. Ông H được nuôi cháu Phạm Văn Y, sinh ngày 03/12/2003 và cháu Phạm Hoài P, sinh ngày 04/9/2009.
Công nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi cháu Y và cháu P.
Bà T, ông H cùng các thành viên trong gia đình không ai được cản trở trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số: 0010869 ngày 04/12/2018.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/4/2019) bà T có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng ông H thì thời hạn này được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).
Bản án 159/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn
Số hiệu: | 159/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về