Bản án 158/2020/HSST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 158/2020/HSST NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 131/2020/TLST-HS ngày 24-4-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2020/QĐ-HSST ngày 19-5-2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1994 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 01/61 T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nơi ở: Số nhà 493/1 B, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị M; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24-01-2017 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ra Quyết định áp dụng biên pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 12 tháng; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27 tháng 02 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Trần Văn Điền và anh Trần Dương Thành (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 27-02-2020, Tổ công tác Công an phường N, thành phố N làm nhiệm tại khu vực trước của số nhà 89 đường N, phường T, thành phố N, phát hiện Nguyễn Văn H đi bộ một mình, có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, thu giữ trong túi quần bên phải H đang mặc 01 chiếc ví da màu nâu, bên trong ví ngăn kéo khóa có 01 túi ni lông màu đen, mở kiểm tra túi ni lông màu đen là gói giấy màu vàng, có chứa chất bột dạng cục màu trắng (H khai là gói Heroine). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng đưa H và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường N, thành phố N, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn tạm giữ của H 01 chiếc ví da màu nâu; 01 chiếc điện thoại Masstel (đều đã cũ) và số tiền 20.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 250/GĐKTHS ngày 02-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy màu vàng, bên ngoài bọc ni lông màu đen, thu giữ của Nguyễn Văn H, được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu: 0,120 gam (không phẩy một trăm hai mươi không gam).

Tại Cơ quan điều tra: Nguyễn Văn H khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Ngày 26-02-2020 H đi từ nhà ở thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định để thăm ông nội. Khoảng 8 giờ ngày 27-02-2020 H đi xe ôm từ cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định, đến khu vực 3 tầng P, phường T, thành phố N. Đến nơi H trả tiền xe ôm, rồi đi bộ vào khu vực 3 tầng mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ), đang đứng ở vỉa hè 01 gói Heroine, được gói bằng túi ni lông màu đen với số tiền 100.000 đồng. H cầm gói Heroine vừa mua cất vào trong ví ngăn kéo khóa, sau đó để ví vào trong túi quần bên phải H đang mặc rồi đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi H đi đến trước cửa số nhà 89 đường N, phường T, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 137/CT-VKSTPNĐ ngày 24-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Văn H xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn H theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo 01 chiếc ví da màu nâu, 01 chiếc điện thoại Masstel (đều đã cũ) và số tiền 20.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn H có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 09 giờ 00 phút ngày 27-02-2020, tại khu vực trước cửa số nhà 89 đường N, phường T, thành phố N, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,120 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân xấu.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 250/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc ví da màu nâu; 01 chiếc điện thoại Masstel (đều đã cũ) và số tiền 20.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Văn H Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 27 tháng 02 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 250/GĐKTHS. Trả lại bị cáo 01 chiếc ví da màu nâu; 01 chiếc điện thoại Masstel (đều đã cũ) và số tiền 20.000 đồng (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 4 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn H được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời H thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HSST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về