Bản án 157/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 157/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 294/2021/TLST-HNGĐ, ngày 29 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 244/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 21 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Hồng X, sinh năm 1985 Cư trú: đường Đ, tổ X, khóm M, phường Q, thành phố L, tỉnh An Giang.(Có mặt)

 - Bị đơn: Ông Nguyễn Trần Hoàng B, sinh năm 1986 Cư trú: khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, quá trình giải quyết nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông B tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh An Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 118 MX, quyển số 01/2006, ngày 03/10/2006. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, đến năm 2009 thì vợ chồng sống ly thân đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã rất trầm trọng và không thể hàn gắn được nên bà X yêu cầu ly hôn với ông B.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Huỳnh Hồng H, sinh ngày 19/3/2006. Sau ly hôn, bà X yêu cầu trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Bà X không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Nguyễn Trần Hoàng B đều vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà X. Tại phiên tòa, ông B tiếp tục vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Huỳnh Thị Hồng X; về con chung, giao con chung Nguyễn Huỳnh Hồng H cho bà X tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị Hồng X khởi kiện tranh chấp ly hôn với ông Nguyễn Trần Hoàng B. Ông B cư trú khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn Trần Hoàng B được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Bà X và ông B tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh An Giang ngày 03/10/2006 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình giải quyết, bà X xác định không còn tình cảm với ông B, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên bà yêu cầu ly hôn. Ông B vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà X về tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung; không cung cấp, giao nộp chứng cứ. Tại phiên tòa, ông B tiếp tục vắng mặt không lý do, thể hiện ông B không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân sẽ không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà X.

[3] Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Huỳnh Hồng H, sinh ngày 19/3/2006. Xét thấy, thời gian sống ly thân con chung do bà X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cháu vẫn phát triển tốt về mọi mặt; hơn nữa, cháu H là nữ, rất cần sự quan tâm, chăm sóc của mẹ và cháu cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Do đó, để ổn định cuộc sống cho cháu H khi bà X và ông B ly hôn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H của bà X.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, bà X là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà X phải tạo điều kiện cho ông B được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Nguyễn Huỳnh Hồng H. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà X không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông B không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử chưa giải quyết. Đương sự có tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác theo quy định.

[5] Về án phí: Bà Huỳnh Thị Hồng X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273;

khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Hồng X.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Hồng X được ly hôn ông Nguyễn Trần Hoàng B.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Huỳnh Hồng H, sinh ngày 19/3/2006. Hiện đang sống cùng bà X.

Bà X được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Nguyễn Huỳnh Hồng H. Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà X không yêu cầu.

Bà X phải tạo điều kiện cho ông B được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Huỳnh Hồng H. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Bà Huỳnh Thị Hồng X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002783, ngày 27/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Bà X đã nộp đủ tiền án phí.

Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng X được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn ông Nguyễn Trần Hoàng B được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 157/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:157/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về