Bản án 157/2020/DS-PT ngày 21/12/2020 về tranh chấp dân sự kiện đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 157/2020/DS-PT NGÀY 21/12/2020 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN 

Ngày 21 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2020/TLPT-DS ngày 02 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DS-ST ngày 16/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 355/2020/QĐ-PT ngày 17 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1954 Trú tại: Thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh L (có mặt) - Bị đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1963 Trú tại: Thôn 3, xã L, huyện B, tỉnh L (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Lê Thanh Dương – sinh năm 1967, địa chỉ: 11A Lam Sơn, phường Lộc Sơn, thành phố Bảo Lộc, tỉnh L. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị L trình bày:

Ngày 21/3/2016 bà Phạm Thị L cho bà Nguyễn Thị K, địa chỉ: Thôn 3, xã L, huyện B vay số tiền 280.000.000đồng, ngày 22/3/2016 bà L tiếp tục cho bà K vay số tiền 195.000.000đồng, khi vay hai bên có viết giấy biên nhận, thống nhất ghi khoản vay của ngày 21/3/2016 chung vào ngày 22/3/2016 thành 475.000.000đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng với nhau là 1.000đồng/triệu/ngày, thời hạn vay 07 ngày, mục đích vay để đáo hạn Ngân hàng, giấy vay do bà L viết, bà K ký tên ở dưới. Đến hẹn bà L đòi nhiều lần nhưng bà K không trả, nay bà L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà K trả số tiền vay gốc là 475.000.000 đồng và lãi suất là 1,67%/tháng, lãi suất từ ngày vay 21/3/2016 đến 28/8/2020 là 53 tháng (làm tròn) = 420.422.500 đồng. Cộng gốc và lãi 895.422.500đ.

Ngoài ra bà Phạm Thị L không yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Nguyễn Thị K và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Lê Thanh Dương trình bày:

Bà K không vay của bà L số tiền 475.000.000 đồng như bà L trình bày, chữ ký trên giấy vay tiền ngày 21/3/2016 không phải chữ ký của bà K, còn ai ký thì bà K không biết. Bà K có nhận của bà L 02 lần với số tiền là 475.000.000 đồng, nhưng đây không phải bà K vay của bà L mà là bà L trả nợ thay cho con dâu bà L là chị Nguyễn Thị Thìn do trước đó chị Thìn có vay của bà K số tiền 690.000.000 đồng chưa trả cho bà K.

Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DSST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L đối với bà Nguyễn Thị K về việc “Kiện đòi tài sản”.

- Buộc bà Nguyễn Thị K trả cho bà Phạm Thị L số tiền 475.000.000đ.

- Bác yêu cầu của bà Phạm Thị L đối với bà Nguyễn Thị K về việc trả lãi với số tiền 420.422.500 đồng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/9/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị K kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa hôm nay bà K đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sửa bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DSST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B.

Bà Phạm Thị L đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định.

Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án sơ thẩm số 37/2020/DSST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ các ý kiến của đương sự, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị K trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Trong vụ án này các bên đương sự đều có nơi cư trú tại huyện B, tỉnh L; Xuất phát từ việc bà Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị K phải trả số tiền đã vay cả gốc và lãi là 895.422.500đ, Tòa án nhân dân huyện B căn cứ vào giấy biên nhận tiền ngày 21/3/2016 xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp kiện đòi tài sản” là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp và cũng xác định đúng, đầy đủ tư cách của các đương sự trong vụ án.

[3] Về nội dung vụ án và kháng cáo của bà Nguyễn Thị K, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Xuất phát từ việc đưa, nhận tiền giữa bà L và bà K vào các ngày 21/3/2016 và 22/3/2016, Nguyên đơn bà Phạm Thị L cho rằng bà K vay của mình 02 lần với số tiền 280.000.000đồng và 195.000.000đồng, tổng cộng 475.000.000đồng, lãi suất 1.000đồng/triệu/ngày, thời hạn vay 07 ngày, đến hẹn bà L đòi nhiều lần nhưng bà K không trả, do đó bà L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà K trả số tiền vay gốc là 475.000.000đồng và lãi suất từ ngày vay 21/3/2016 đến 28/8/2020 là 53 tháng = 420.422.500đồng, cộng gốc và lãi là 895.422.500 đồng. Bị đơn bà Nguyễn Thị K thừa nhận vào ngày 21/3/2016 và 22/3/2016 có nhận của bà L số tiền tổng cộng là 475.0000.000đồng, số tiền này là bà L đưa để trả nợ thay cho bà Thìn là con dâu của bà L vay của bà K 690.000.000đồng, chứ bà K không vay tiền của bà L. Vì vậy các bên phát sinh tranh chấp, cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tài liệu chứng cứ duy nhất này mà không căn cứ vào lời trình bày và thừa nhận của đương sự, cũng như diễn biến, thời gian, hoàn cảnh thực tế để xem xét một cách toàn diện, thấu tình đạt lý là chưa đảm bảo khách quan trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, bởi lẽ:

Theo bản chính giấy ghi ngày 21/3/2016 (BL 34) mà nguyên đơn bà Phạm Thị L cung cấp thì bà K có nhận của bà L 02 lần tiền với tổng số tiền là 475.000.000 đồng, Giấy ghi ngày 21/3/2016 ghi “Cô L đưa K tổng số: 21.3.16 280.000.0000đ, 22.3.16 195.000.000đ, tổng 475.000.000đồng” phía dưới có chữ ký và chữ viết ghi họ tên Nguyễn Thị K, nhưng không có nội dung thể hiện vay như bà L khai. Bên cạnh đó theo bà L khai cho bà K vay với thời hạn 07 ngày trả, lãi thỏa thuận bằng miệng nhưng đã hết 07 ngày bà K không trả thì không có lý do gì từ năm 2016 cho đến năm 2019 bà L mới làm đơn khởi kiện, vì vậy theo lời khai của bà K cũng như lời trình bày của bà Thìn (con dâu bà L) khai tại phiên tòa sơ thẩm, Giấy xác nhận của bà Thìn (BL56) cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ xác định việc bà L trả thay cho bà Thìn (là con dâu) là hoàn toàn phù hợp và có cơ sở, nhưng do thời gian lâu hoặc có nhiều mối quan hệ làm ăn khác nên bà L đã dựa vào tài liệu chứng cứ nêu trên có nội dung “Cô L đưa K tổng số: 21.3.16 280.000.0000đ, 22.3.16 195.000.000đ tổng 475.000.000đồng” để làm căn cứ đòi lại số tiền này là không phù hợp nên cần chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà K sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng không chấp nhận đơn khởi kiện của bà L là phù hợp. Nếu sau này giữa bà L với bà Thìn (con dâu) có phát sinh tranh chấp đối với số tiền 475.000.000 đồng thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác cũng như số tiền vay của bà Thìn đối với bà K còn thiếu thì sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác nếu các đương sự có tranh chấp và yêu cầu.

[4] Về chi phí tố tụng: Đối với số tiền 5.020.000đ chi phí tố tụng, bà L đồng ý chịu chi phí giám định 4.000.000 đồng và bà K nhận chịu 1.020.000 đồng, xét đây là sự tự nguyện của các bên đương sự phù hợp với quy định của pháp luật cần được chấp nhận. Bà L và bà K đã nộp đủ và đã được quyết toán xong.

[6] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Bà Phạm Thị L thuộc trường hợp được miễn án phí. Do đó Hội đồng xét xử quyết định miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho bà Phạm Thị L.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị K. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 37/2020/DSST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L về việc buộc bị đơn bà Nguyễn Thị K phải trả số tiền 475.000.000(Bốn trăm bảy mươi lăm triệu) đồng.

2. Về án phí:

2.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Phạm Thị L.

Hoàn trả cho bà Phạm Thị L 18.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tạm nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0019489 ngày 23/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh L.

3.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị L được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị K số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2017/0004652 ngày 13/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh L.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

546
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2020/DS-PT ngày 21/12/2020 về tranh chấp dân sự kiện đòi tài sản

Số hiệu:157/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về