Bản án 157/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 157/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong các ngày 19 và ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 241/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 09 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1990 (có mặt).

Cư trú tại: Ấp T, xã R, huyện P, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: bà Phạm Thị M, sinh năm 1997 (vắng mặt).

Cư trú tại: Ấp T, xã R, huyện P, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 16 tháng 7 năm 2019 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày: Ông và bà Phạm Thị M tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã R, huyện P, tỉnh Cà Mau. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, sau một thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bà M bỏ nhà về nhà cha mẹ ruột sinh sống, vợ chồng không còn chung sống từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Ông nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị M. Trong quá trình chung sống ông và bà M có một người con chung tên Nguyễn Đức Th, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2015, con chung do ông đang trực tiếp nuôi dưỡng, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 20 tháng 11 năm 2019 bị đơn bà Phạm Thị M trình bày: Bà và ông Th tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nên vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 8 năm 2018, hiện nay bà không còn tình cảm với ông Th nên ông Th yêu cầu ly hôn, bà đồng ý ly hôn.Trong quá trình chung sống bà và ông Th có một đứa con chung tên Nguyễn Đức Th, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2015, con chung đang ở với ông Th. Sau khi ly hôn bà đồng ý giao con chung cho ông Th nuôi dưỡng, bà không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung có không, nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th, cho ông Nguyễn Văn Th ly hôn với bà Phạm Thị M; giao con chung cho ông Th trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Phạm Thị M, yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Do đó, đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bà Phạm Thị M là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bà Phạm Thị M.

[3] Vê quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn Th và bà Phạm Thị M tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã R, huyện P, tỉnh Cà Mau nên hôn nhân của ông Th và bà M là hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Tại phiên tòa ông Th giữ quan điểm yêu cầu ly hôn với bà Phạm Thị M. Tại bản tự khai ngày 20 tháng 11 năm 2019 bà M đồng ý ly hôn với ông Th. Điều này cho thấy tình trạng hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn Th với bà Phạm Thị M đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Th về việc yêu cầu ly hôn với bà Phạm Thị M.

[4] Về quyền nuôi con chung: Trong quá trình chung sống ông Th và bà M có một người con chung tên Nguyễn Đức Th, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2015, con chung do ông Th đang trực tiếp nuôi dưỡng, ông Th yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Tại bản tự khai ngày 20 tháng 11 năm 2019 bà Phạm Thị M đồng ý giao con chung cho ông Th trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy sự thỏa thuận giữa ông Th và bà M là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của ông Th và bà M, giao người con chung tên Nguyễn Đức Th, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2015 cho ông Nguyến Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng. Bà M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Ông Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Văn Th và bà Phạm Thị M không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị như nêu trên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm ông Th phải chịu 300.000đ, ông Th đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ được chuyển thu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39, Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271 và Điêu 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Văn Th và bà Phạm Thị M.

- Về quyền nuôi con chung: Giao người con chung tên Nguyễn Đức Th, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2015 cho ông Nguyễn Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Phạm Thị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Ông Nguyễn Văn Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0019307 ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân; ông Th đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm , ông Nguyễn Văn Th có quyền kháng cá o bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Phạm Thị M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:157/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về