Bản án 156/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 156/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 181/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3730/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Khu dân cư TH, thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT: Khu dân cư TH, thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 1, ngõ 28, đường TC, phường TĐ, khu QS, thành phố ĐV, Lãnh thổ Đài Loan; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản khai và đơn đề nghị, nguyên đơn anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N thống nhất trình bày:

Anh Phạm Văn T kết hôn với chị Nguyễn Thị N trên cơ sở tự nguyện của hai bên và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng từ ngày 24 tháng 9 năm 2007. Quá trình chung sống của vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do năm 2014, chị N đi lao động ở nước ngoài (Đài Loan), chị N cho rằng anh T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên dẫn đến vợ chồng không tin tưởng, hiểu lầm nhau và bất đồng với nhau trong cuộc sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Tháng 2 năm 2017, chị N có về nước và làm đơn xin ly hôn với anh T nhưng do lúc đó chị N chỉ về có một thời gian ngắn nên anh chị chưa làm thủ tục ly hôn. Nay, anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh chị đều đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Vợ chồng anh chị có một con chung là Phạm Hoàng Minh V, sinh ngày 23 tháng 4 năm 2008. Hiện nay, cháu đang sống cùng với anh T và ông bà nội, sức khỏe cháu bình thường. Khi ly hôn, anh T và chị N thỏa thuận: Chị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung, anh T và chị N xin tự giải quyết không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vợ chồng anh chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N đều đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xét xử vắng mặt anh chị.

Tại đơn đề nghị của gia đình nguyên đơn và bị đơn: Đều thể hiện mâu thuẫn vợ chồng anh T và chị N đã thực sự trầm trọng, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn. Đồng thời, đề nghị giao con chung cho chị N nuôi dưỡng.

Tại đơn đề nghị của con chung thể hiện: Cháu có nguyện vọng được ở với mẹ khi anh T, chị N ly hôn.

Tại phiên tòa, anh T và chị N đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; chị N không có sự thay đổi nội dung tại bản tự khai đã gửi cho Tòa án.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đa chấp hành đúng cac quy đinh cua Bô luât Tô tụng dân sự; nguyên đơn đa thực hiện đung các quyền va nghia vụ, tham gia phiên tòa đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự ; bị đơn chị Nguyễn Thị N đã cung cấp đầy đủ lời khai, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ chứng minh đó là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N kết hôn tại UBND thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng ngày 24 tháng 9 năm 2007 là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T và chị N. Về con chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N có một con chung là Phạm Hoàng Minh V, sinh ngày 23 tháng 4 năm 2008. Cần chấp nhận sự thỏa thuận của anh T, chị N, theo nguyện vọng của cháu V và gia đình nguyên đơn, bị đơn cần giao con chung cho chị N nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung anh T, chị N xin tự giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết. Về tài sản chung: Anh T và chị N xác định không có tài sản chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về việc ly hôn. Chị Nguyễn Thị N cư trú ở nước ngoài, anh Phạm Văn T cư trú tại thành phố Hải Phòng. Mặt khác, anh T và chị N đều có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết việc ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1Điều 37; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố HảiPhòng.

[2] Về việc hòa giải vụ án và sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn chị Nguyễn Thị N hiện đang cư trú tại Lãnh thổ Đài Loan, chị N và anh T đều đề nghị không tiến hành hòa giải. Do vậy, căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự đều vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng từ ngày 24 tháng 9 năm 2007, theo quy định tại Điều 8; Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2010 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do chị N đi lao động ở nước ngoài. Chính vì sự xa cách về địa lý nên vợ chồng bất đồng với nhau quan điểm trong cuộc sống, không tin tưởng, không quan tâm đến nhau. Từ đó, tình cảm vợ chồng ngày càng trở nên lạnh nhạt. Mặt khác, vợ chồng anh chị đã sống ly thân trong thời gian dài. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị N đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể tiếp tục, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đê nghị ly hôn của anh T.

[4] Về con chung: Anh chị có một con chung là Phạm Hoàng Minh V, sinh ngày 23 tháng 4 năm 2008, cháu hiện tại sức khỏe tốt và đang ở với anh T. Khi ly hôn, anh chị thỏa thuận: Giao cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung anh chị xin tự giải quyết. Xét thấy, theo sự thỏa thuận của anh T và chị N, nguyện vọng của con chung và của gia đình anh T, chị N. Yêu

cầu của anh chị không trái với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội nên cần chấp nhận thỏa thuận của anh chị, giao con chung cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, phù hợp với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N đều xác nhận không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Văn T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị N.

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Hoàng Minh V, sinh ngày 23 tháng 4 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị N nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị N không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Văn T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nôp la 300.000đ (ba trăm nghin đông ) theo Biên lai sô 0010879 ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Anh Phạm Văn T đa nôp đu án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị N (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Anh Phạm Văn T (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 156/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:156/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về