Bản án 155/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 155/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 355/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh ngày 27 tháng 10 năm 199X tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Tổ 41 cụm 7 phường Đ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 5/1/69 đường Chợ Con, phường Trại Cau, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Khang và bà Phạm Thị Thoa; bị cáo có vợ Lý Thị Mai Anh và 01 con; tiền sự, tiền án, nhân thân: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 25/6/2020, tạm giam ngày 28/6/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ ngày 24/6/2020, tại khu vực trước cửa số nhà 19/61 Chợ Con, Trại Cau, Lê Chân, Hải Phòng, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân kết hợp Trạm cảnh sát đường thủy An Dương – Phòng Cảnh sát giao thông đường thủy Công an thành phố Hải Phòng phát hiện Bùi Văn T có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên tiến hành kiểm tra. T ném 01 túi nylon màu trắng từ lòng bàn tay phải xuống mặt đường phía trước cách chỗ T đứng khoảng 02m. Tổ công tác đã phát hiện, kiểm tra và thu giữ bên trong túi nylon màu trắng có 01 túi nylon kích thước 5x10cm bên trong có 15 viên nén hình trụ tròn màu xám (Mẫu QT01), 02 túi nylon kích thước 2x3cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (Mẫu QT02). Ngoài ra còn thu giữ của T 01 điện thoại Oppo màu đỏ và số tiền 1.500.000 đồng. Sau đó T được đưa về trụ sở Công an quận Lê Chân lập biên bản.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Văn T tại nhà số 5/1/69 Chợ Con, Trại Cau, Lê Chân, Hải Phòng thu giữ: trong túi áo khoác treo trên móc gần cửa ra vào: 01 hộp sắt kích thước 01x04x10cm nhãn hiệu Mentos màu xanh bên trong chứa 13 điếu dạng thuốc lá bằng giấy bên trong đều chứa thảo mộc khô (Mẫu KX01); thu trong ba lô treo trên móc gần cửa ra vào 01 hộp nhựa màu trắng kích thước 07x18x22cm bên trong có: 01 túi nylon màu trắng kích thước 07x10cm đựng thảo mộc vụn khô (Mẫu KX02), 01 chiếc kéo bằng kim loại, 20 mảnh giấy màu trắng kích thước 2,5x2,5cm, 01 hộp giấy nhãn hiệu Rollies bên trong có 60 mảnh giấy kích thước 3,5x7cm; thu trong lò vi sóng ở kệ bếp: 01 túi nylon màu trắng mép viền màu đỏ kích thước 10x06cm bên trong có 01 viên nén hình trụ tròn (Mẫu KX03A); 01 túi nylon màu trắng mép viền màu cam kích thước 9x12cm bên trong có 02 túi nylon kích thước 2x2,5cm đều chứa tinh thể màu trắng (Mẫu KX03B); 01 túi nylon màu trắng mép viền màu cam kích thước 8x13cm bên trong có 04 túi nylon kích thước 2,5x2,5cm đều chứa tinh thể màu trắng (Mẫu KX03C) và trên giá để tivi 01 điện thoại Nokia màu đen.

Tại Kết luận giám định số 395, 396 ngày 27/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 15 viên nén màu xám của mẫu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 6,74 gam, là loại MDMA; tinh thể màu trắng của mẫu QT02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,88 gam, là loại Ketamine (Bút lục: 33). Thảo mộc khô, vụn của mẫu KX01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,76 gam, là loại cần sa; thảo mộc khô, vụn của mẫu KX02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 10,41 gam, là loại cần sa; 01 viên nén hình t rụ tròn màu xám của mẫu KX03A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,47 gam, là loại MDMA; tinh thể màu trắng của mẫu KX03B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,45 gam, là loại Ketamine; tinh thể màu trắng của mẫu KX03C gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,70 gam, là loại Ketamine.

Tổng hợp các chất ma túy khi bắt quả tang và khám xét chỗ ở của Bùi Văn T gồm: 7,21 gam MDMA, 6,03 gam Ketamine và 14,17 gam cần sa.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn T khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 23/6/2020 T đi xe mô tô một mình từ nhà đến khu vực chân cầu An Đồng, An Dương, Hải Phòng với mục đích mua ma túy về bán kiếm lãi. T có gặp một người đàn ông dáng vẻ giống nghiện ma túy (hiện chưa rõ lai lịch, địa chỉ) và hỏi mua ma túy thì người này đồng ý. T đã mua của người đàn ông này 15 gam cần sa, 16 viên thuốc lắc và 06 gam Ketamine với giá 12.200.000 đồng. T nhận số ma túy trên rồi đi về nhà. Về đến nhà, T cất 16 viên thuốc lắc và số Ketamine vào trong lò vi sóng (đã hỏng) để ở kệ bếp. T dùng kéo cắt nhỏ cần sa, rồi dùng giấy quấn thành 13 điếu và cất giấu trong 01 hộp sắt nhãn hiệu Mentos sau đó cho vào túi áo khoác treo gần cửa ra vào. Số cần sa vụn khô còn lại T cho vào 01 túi nylon màu trắng và cất giấu vào trong 01 hộp nhựa màu trắng, sau đó cho vào balo treo ở gần cửa ra vào. Đến khoảng 20 giờ ngày 24/6/2020, T đang ở nhà thì có Cường (là bạn xã hội với T, hiện chưa rõ lai lịch địa chỉ) gọi điện thoại cho T và hỏi mua 15 viên “kẹo” (thuốc lắc) và 02 túi Ketamine. T đồng ý và báo giá “Kẹo là 260.000 đồng/ viên, còn Ketamine là 1.600.000 đồng/01 gam”. Cường đồng ý và hẹn T ở đầu ngõ 69 Chợ Con, Lê Chân, Hải Phòng để giao dịch ma túy. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Cường điện thoại cho T báo đã đến nơi thì T lấy 15 viên thuốc lắc và 02 túi Ketamine cho vào túi quần đùi bên phải đang mặc rồi đi ra đầu ngõ 69 Chợ Con. Khi T đi đến trước cửa số nhà 19/61 Chợ Con, Trại Cau, Lê Chân, Hải Phòng thi bị lực lượng Công an kiểm tra. T hoảng sợ nên lấy số ma túy trong túi quần ném xuống đất thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ và đưa về trụ sở lập biên bản.

Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 395 và 01 phong bì niêm phong số 396 đều đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, 01 hộp sắt KT 1x4x10cm nhãn hiệu Mentos màu xanh, 01 hộp nhựa màu trắng KT 7x18x22cm, 01 chiếc kéo kim loại, 01 hộp giấy nhãn hiệu Rollies bên trong có 60 mảnh giấy KT 3,5x7cm, 20 mảnh giấy màu trắng KT 2,5x2x5cm và số tiền 1.500.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 159/CT-VKS ngày 06/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Bùi Văn T khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T với mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 395 và 01 phong bì niêm phong số 396 đều đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 hộp sắt KT 1x4x10cm nhãn hiệu Mentos màu xanh, 01 hộp nhựa màu trắng KT 7x18x22cm, 01 chiếc kéo kim loại, 01 hộp giấy nhãn hiệu Rollies bên trong có 60 mảnh giấy KT 3,5x7cm, 20 mảnh giấy màu trắng KT 2,5x2x5cm. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ. Trả lại cho bị cáo 1.500.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia màu đen. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Bùi Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 7,21 gam MDMA, 6,03 gam Ketamine và 14,17 gam cần sa để bán cho người khác kiếm lời. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[7] Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 395 và 01 phong bì niêm phong số 396 đều đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 hộp sắt KT 1x4x10cm nhãn hiệu Mentos màu xanh, 01 hộp nhựa màu trắng KT 7x18x22cm, 01 chiếc kéo kim loại, 01 hộp giấy nhãn hiệu Rollies bên trong có 60 mảnh giấy KT 3,5x7cm, 20 mảnh giấy màu trắng KT 2,5x2x5cm.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ có số IMEL 868125042539839 là phương tiện dùng cho việc mua bán ma túy.

[8] Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen dạng bàn phím số IMEL 356944090004770 và 1.500.000 đồng vì không phải là phương tiện phạm tội nhưng cần tiếp tục tạm giữ 1.500.000 đồng để đảm bảo thi hành án về phần án phí.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với người nam giới đã mua ma túy cho T và Cường là đối tượng hỏi mua ma túy của T hiện chưa rõ lai lịch địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Văn T 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 25/6/2020.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, b, c khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 395 và 01 phong bì niêm phong số 396 đều đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 hộp sắt KT 1x4x10cm nhãn hiệu Mentos màu xanh, 01 hộp nhựa màu trắng KT 7x18x22cm, 01 chiếc kéo kim loại, 01 hộp giấy nhãn hiệu Rollies bên trong có 60 mảnh giấy KT 3,5x7cm, 20 mảnh giấy màu trắng KT 2,5x2x5cm.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ có số IMEL 868125042539839.

+ Trả lại cho bị cáo Bùi Văn T 01 điện thoại di động Nokia màu đen dạng bàn phím số serial 356944090004770 và 1.500.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0004597 và biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 06/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nhưng tiếp tục tạm giữ 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng để đảm bảo thi hành phần án phí, số tiền còn thừa trả lại cho bị cáo.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Bùi Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:155/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về