Bản án 155/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 155/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2019/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Xuân Ph, sinh ngày 02/9/1984 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 11/369 LB, phường LS, quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân Đ (đã chết) và bà Dương Thị Th; có vợ là Dương Thị H và có hai con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ ngày 26/6/2019, tạm giam ngày 28/6/2019; có mặt.

2. Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 20/7/1985 tại Hải Phòng. Đăng kí hộ khẩu thường trú: Tổ 25 ngõ 280 TNHã, phường N, quận L, thành phố H; tạm trú: Số 122/84 ĐHDL, phường D, quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị X; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: bị cáo có 03 tiền án trong đó có 02 tiền án chưa được xóa án tích: Án số 96/2012/HSST ngày 27/6/2012 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; án số 50/2015/HSST ngày 29/5/2015 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành ra tù 28/11/2017 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không có; nhân thân: Tại án số 09/2009/HSST ngày 17/02/2009 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích theo Nghị quyết 33); bị bắt tạm giữ ngày 25/6/2019, tạm giam ngày 28/6/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 16h30’ ngày 24/6/2019, tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 100 đường Đại học Dân Lập, phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân phát hiện Nguyễn Văn Đ có biểu hiện nghi vấn cất giữ trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Ngay lúc đó, Đ thả từ tay trái xuống đất 01 gói giấy bản bên trong có 02 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác đã đưa Đ cùng vật chứng về trụ sở Công an quận lập Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra, còn thu giữ của Đ 01 điện thoại di động Redmi, 01 điện thoại Nokia đã cũ, 01 xe mô tô BKS 16N3 - 6799.

Ti Kết luận giám định số 349/KLGĐ ngày 26/6/2019 của Phòng Kĩ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon thu giữ của Nguyễn Văn Đ có khối lượng 1,7376g là loại Methamphetamine.

Nguyễn Văn Đ khai: Khoảng 16h ngày 24/6/2019, Đ gọi điện thoại cho Phạm Xuân Ph hỏi mua 900.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Ph đồng ý và hẹn giao dịch tại nhà Ph Khoảng 16h15’ cùng ngày, Đ một mình điều khiển xe mô tô BKS 16N3 – 6799 đến số 11/369 Lán Bè, phường Lam Sơn, quận Lê Chân gặp Phương. Tại đây, Đ lấy 900.000 đồng đưa cho Ph và nhận 02 túi nilon đựng ma túy đá được bọc bằng giấy bản. Đ cầm số ma túy mua được ở tay trái rồi đi về đến khu vực trước cửa nhà số 100 Đại học dân lập, phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân thì bị lực lượng công an kiểm tra. Do hoảng sợ nên Đ đã thả ma túy xuống đất. Tổ công tác thu giữ vật chứng và đưa Đ về trụ sở Công an quận như nêu trên.

Ngày 24/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Xuân Ph tại số 11/369 Lán Bè, phường Lam Sơn, quận Lê Chân, Hải Phòng thu giữ tại tầng 1:

- Trong ngăn giữa tủ kệ ti vi 01 túi nilon trắng chứa tinh thể màu trắng.

- Trong ngăn kéo tủ để giầy gần cửa ra vào 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng.

- Trong ngăn ngoài cùng tủ chạn bếp 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng.

Thu giữ tại tầng 2: 01 hộp sắt trong có 01 cân điện tử, 05 vỏ túi nilon, 01 ống nhựa có một đầu vát nhọn, 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO.

Tại Kết luận giám định số 350/KLGĐ ngày 27/6/2019 của Phòng Kĩ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ trong ngăn kéo tủ giầy tầng 1 cân nặng 0,2315 gam là loại Methamphetamine.

- Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ trong ngăn giữa tủ tivi tầng 1 cân nặng 0,1286 gam là loại Methamphetamine.

- Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ trong ngăn ngoài cùng tủ bếp tầng 1 cân nặng 0,1344 gam là loại Methamphetamine.

Phạm Xuân Ph khai nhận: Ngày 22/6/2019, Ph gọi điện cho một nữ giới tên L (không rõ căn cước, lai lịch) hỏi mua 1.200.000 đồng ma túy đá. L đồng ý và bảo sẽ có 01 nam giới mang ma túy đến nhà Ph. Khi đến gần nhà Ph, người nam giới liên lạc để Ph ra nhận. Ph đưa cho người nam giới 1.200.000 đồng và nhận 01 gói ma túy. Ph mang số ma túy mua được về nhà, chia thành 05 túi nhỏ cất giấu ở nhiều nơi nhằm bán cho đối tượng nghiện kiếm lời. Đến khoảng 16h ngày 24/6/2019, Ph đã bán cho Nguyễn Văn Đ 02 túi ma túy với giá 900.000 đồng. Ph không nhớ số điện thoại của L và người nam giới giao ma túy.

Tại bản cáo trạng số 155/CT-VKS ngày 01 tháng 10 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Phạm Xuân Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ngày 24/6/2019, Phạm Xuân Ph có hành vi cất giữ trái phép 2,2321 gam Methamphetamine với mục đích để bán cho người nghiện. Trong đó Nguyễn Văn Đ đã mua 1,7376 gam Methamphetamine của Ph với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang vào hồi 16h30’ cùng ngày. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Xuân Ph về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Xuân Ph mức án từ 30 đến 36 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 06 đến 07 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Do các bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong số 349/PC09 và 350/PC09 đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định; 01 cân điện tử màu nâu đã cũ; 05 vỏ túi nilon trắng; 01 ống nhựa có đầu vát nhọn; 01 điện thoại Nokia màu đen đã hỏng thu giữ của Nguyễn Văn Đ.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động cảm ứng OPPO đã qua sử dụng thu giữ của Phạm Xuân Ph; 01 điện thoại di động Readmi màu đỏ đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn Đ.

- Buộc Phạm Xuân Ph phải nộp lại số tiền 900.000 đồng do phạm tội mà có để sung quỹ Nhà Nước.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đi với chiếc xe máy biển kiểm soát: 16N3 - 6799 thu giữ của Nguyễn Văn Đ. Quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ để điều tra, xử lý sau; nên không đề nghị Hội đồng xét xử xét giải quyết.

Đi với người nữ giới tên L và người nam giới bán ma túy cho Phạm Xuân Ph ngày 22/6/2019, quá trình điều tra, Ph khai không biết căn cước, lai lịch của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra; nên không đề nghị Hội đồng xét xử xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 24/6/2019, Phạm Xuân Ph có hành vi cất giữ trái phép 2,2321 gam là loại Methamphetamine với mục đích để bán cho người nghiện; vào khoảng 16h30cùng ngày Nguyễn Văn Đ đã mua 900.000 đồng ma túy của Ph được 1,7376 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà số 100 đường Đại học Dân lập, phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng và luận tội bị cáo Phạm Xuân Ph đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” vi phạm khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo Nguyễn Văn Đ đã đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do về nhân thân bị cáo Đ có 03 tiền án trong đó có 02 tiền án chưa được xóa; nên bị cáo Đ phải chịu tình tiết định khung theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa luận tội các bị cáo như nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Bản thân các bị cáo đều là người biết tác hại của ma túy, biết pháp luật xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi liên quan đến ma túy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Mục đích bị cáo Ph phạm tội do hám lời; bị cáo Đ phạm tội để sử dụng cho bản thân (bị cáo thừa nhận là người nghiện chất ma túy).

[4] Về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo thực hiện hành vi độc lập với nhau.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét để các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Ngoài ra cũng xem xét việc gia đình bị cáo Ph có đơn xin giảm nhẹ và trình bày có ông được Nhà Nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì; Ủy ban hành chính thành phố Hải Phòng và Bộ tư lệnh thành phố Hải Phòng tặng nhiều Bằng khen trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị xem xét cho bị cáo. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Về nhân thân:

[7] Bị cáo Ph chưa có tiền án, tiền sự phạm tội lần đầu nhưng thuộc trường hợp nghiêm trọng; nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng cũng cần xem xét khi lượng hình.

[8] Bị cáo Đ có 03 tiền án trong đó có 02 tiền án chưa được xóa án tích theo phân tích phần trên nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật hình sự như nêu trên. Qua đây cho thấy bị cáo là người có nhân thân rất xấu và đã được giáo dục cải tạo nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng dèn luyện bản thân nay lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng điều này thể hiện ý thức coi phường pháp luật của bị cáo.

[9] Như phân tích trên cần xét xử các bị cáo bằng bản án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Căn cứ tài liệu có tại hồ sơ, lời khai của các bị cáo; do các bị cáo không có nghề nghiệp, không thu nhập ổn định và không có tài sản riêng nên Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Đối với số ma túy loại Methamphetamine thu giữ khi khám xét nhà bị cáo Phương có tổng khối lượng 0,4945 gam sau khi lấy đi giám định lượng còn lại 0,2780 gam cùng toàn bộ vỏ bao gói của mẫu vật được niêm phong lại trong phong bì thư theo dấu niêm phong số 350/2019/PC09 cùng chữ ký của những người liên quan. Đây là vật cấm lưu hành, nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

[12] Đối với số ma túy loại Methamphetamine thu giữ khi bắt giữ bị cáo Đ có khối lượng 1,7376 gam, sau khi lấy đi giám định lượng còn lại 1,5910 gam và vỏ bao gói của mẫu vật được niêm phong lại trong phong bì thư theo dấu niêm phong số 349/2019/PC09 cùng chữ ký của những người liên quan. Đây là vật cấm lưu hành, nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

[13] Đối với 01 cân điện tử màu nâu đã cũ; 05 vỏ túi nilon trắng; 01 ống nhựa có đầu vát nhọn thu giữ khi khám xét nhà bị cáo Ph và 01 điện thoại Nokia màu đen đã hỏng thu giữ của bị cáo Đ, xét số vật chứng thu giữ của bị cáo Ph liên quan đến hành vi phạm tội và vật chứng thu giữ của bị cáo Đ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[14] Đối với 01 điện thoại di động OPPO đã qua sử dụng thu giữ của Phạm Xuân Ph; 01 điện thoại di động Readmi màu đỏ đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn Đ; xét các bị cáo đã dùng để liên lạc với nhau trong việc mua bán ma túy, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước.

[15] Đối với số tiền 900.000 đồng bị cáo Ph bán ma túy cho Đ mà có, đây là tiền do phạm tội mà có cần buộc bị cáo phải nộp lại để sung quỹ Nhà Nước.

[16] Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 16N3 - 6799 thu giữ của Nguyễn Văn Đ. Quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ để điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

[17] Đối với người nữ giới tên L và người nam giới bán ma túy cho Phạm Xuân Ph ngày 22/6/2019, quá trình điều tra, Ph khai không biết căn cước, lai lịch của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra; nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

[18] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Xuân Ph 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 26/6/2019.

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn Đ 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 25/6/2019.

Về xử lý tang vật: Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong số 349/2019/PC09 và 350/2019/PC09 đựng toàn bộ vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo Đ và bị cáo Ph; 01 cân điện tử màu nâu đã cũ, 05 vỏ túi nilon trắng, 01 ống nhựa có đầu vát nhọn thu giữ của bị cáo Ph; 01 điện thoại Nokia màu đen đã hỏng thu giữ của bị cáo Đ.

Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động OPPO đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Ph và 01 điện thoại di động Redmi màu đỏ đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Đ.

(Theo Biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 01 tháng 10 năm 2019 giữa Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Buộc bị cáo Phạm Xuân Ph phải nộp lại số tiền 900.000 đồng do phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Ph và bị cáo Đ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:155/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về