Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 154/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 352/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 167/2018/QĐST-HNGĐ ngày11 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Th, sinh năm 1988.

Địa chỉ Tờng trú: tổ 7, ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: Tổ 8, ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn P, sinh năm 1982.

Địa chỉ Tờng trú: tổ 7, ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Chị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh P vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện do Tòa án nhận ngày 07 tháng 5 năm 2018 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Th trình bày:

Chị và anh P xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 123 ngày 26/7/2007.

Sau khi kết hôn, thời gian đầu anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng tháng 2 năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh P có biểu hiện bạo lực, V phu, nhậu nhẹt, ăn chơi và Tờng xuyên lăng mạ và đánh đập chị, nặng nề và đỉnh điểm là ngày 30/4/2016 anh đánh đập chị rất dã man, chị và các con đã về nhà cha mẹ ruột của chị ở từ đó đến nay, còn anh P ra ở nhà trọ tại xã B. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Chị và anh P có 02 con chung là cháu Đinh Anh T, sinh ngày 08/01/2008 và cháu Đinh Uy V, sinh ngày 04/10/2009. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con. Hiện nay hai cháu đang sống với chị. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Th yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng là4.000.000 đồng. Ngày 26/9/2018, chị nộp đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là tạm thời không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Bị đơn anh Đinh Văn P: Anh P đã được tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, thời hạn giải quyết, thu thập chứng cứ, việc xét xử của Hội đồng xét xử, việc tuân theo pháp luật của T ký. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện chị Th và anh P chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo kết quả xác minh tại địa phương thì trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn do anh P nhậu nhẹt. Hiện chị Th và các con về nhà ngoại sống từ năm 2016 cho đến nay, không có biện pháp đoàn tụ nên xác định mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cho chị Th được ly hôn với anh P.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Đinh Anh T, sinh ngày 08/01/2008 và cháu Đinh Uy V, sinh ngày 04/10/2009, hai cháu có nguyện vọng được ở với chị Th. Theo nguyện vọng của hai cháu được sống với mẹ vì mẹ chăm sóc nuôi dưỡng tốt nên áp dụng các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao hai cháu cho chị Th căm sóc nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con do chị Th thay đổi yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 11/9/2018 nên căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị Th. Bị đơn anh Đinh Văn P đã được tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh P.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 123, ngày 26/7/2007, trên cơ sở tự nguyện nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau, Tơng yêu nhau, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên trong quá trình chung sống, chị Th và anh P có phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh P Tờng xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm đến gia đình, Tờng xuyên cãi vã. Chị Th đã về nhà mẹ ruột sống và ly thân từ năm 2016 đến nay, không thể hàn gắn đoàn tụ. Theo kết quả xác minh tại địa phương thì mâu thuẫn giữa chị Th và anh P là có thật và phù hợp với lời trình bày của chị Th. Xét thấy, anh P vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án là thể hiện anh không còn quan tâm đến hôn nhân với chị Th nữa, như vậy giữa chị Th và anh P không còn tình nghĩa vợ chồng, không thể hàn gắn, đoàn tụ được, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Th yêu cầu được ly hôn với anh P là có căn cứ chấp nhận, cho ly hôn giữa chị Th vàanh P.

[3] Về con chung: Chị Th và anh P có 02 con chung là cháu Đinh Anh T, sinh ngày 08/01/2008 và cháu Đinh Uy V, sinh ngày 04/10/2009, hiện đang sống với chị Th từ khi chị Th về nhà mẹ ruột của chị Th sinh sống. Lời trình bày của chị Th phù hợp với kết quả xác minh tại địa phương. Xét nguyện vọng của hai cháu là muốn được sống với mẹ, chị Th có chỗ ở ổn định, có việc làm, hai cháu hiện nay đang được chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nên để đảm bảo cuộc sống ổn định và điều kiện phát triển tốt cho hai cháu, cần chấp nhận yêu cầu của chị Th, giao cháu hai cháu cho chị Th tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Th yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng là 4.000.000 đồng. Ngày 26/9/2018, chị Th nộp đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là tạm thời không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị Th khai không có. Anh P thì không có lời khai cũng như không gửi yêu cầu gì cho Tòa án nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị Th khai không có và theo kết quả xác minh tại địa phương thì trong thời kỳ hôn nhân của chị Th và anh P, không có ai tranh chấp với anh chị về nghĩa vụ tài sản nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[7] Đối với ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;Căn cứ khoản 1 Điều 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Th về việc “Tranh chấp ly hôn” đối với anh Đinh Văn P, cho ly hôn giữa chị Th và anh P.

Về con chung: Giao hai cháu Đinh Anh T, sinh ngày 08/01/2008 và Đinh Uy V, sinh ngày 04/10/2009 cho chị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời anh P không phải cấp dưỡng nuôi. Anh P được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không xem xét.

Về án phí: Chị Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 002258 ngày 17/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, chị Th đã nộp xong.

Chị Th, anh P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:154/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về