Bản án 154/2017/HNGĐ-ST ngày 18/08/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 154/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N - tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 356/2017/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2017/QĐXX-ST ngày 11 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Nguyễn Văn T– sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ 21 thôn HN, xã VN, thành phố N, Khánh Hòa. Có mặt.

* Bị đơn: Đoàn Thị G– sinh năm 1978 – địa chỉ: Tổ 21 thôn HN, xã VN, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện gửi đến Tòa án, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ có tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày: Tôi khởi kiện yêu cầu ly hôn với cô Đoàn Thị G. Tôi và cô G tự nguyện kết hôn năm 1998, đăng ký kết hôn tại UBND xã NT, huyện NT, Nam Định. Chúng tôi có hai con chung là Nguyễn Thị Thu T- sinh ngày 14/8/2000 và Nguyễn Đăng K- sinh ngày 24/01/2003. Năm 2011 gia đình tôi từ Nam Định vào thành phố N, Khánh Hòa làm ăn, gia đình sinh sống tại tổ 21 thôn HN, xã VN, thành phố N. Từ năm 2013 cuộc sống vợ chồng nhiều mâu thuẫn, thường xuyên kình lộn, cô G nhiều lần bỏ nhà đi bỏ mặc chồng con, khi về thì không nói lý do. Tôi góp ý, khuyên giải nhiều nhưng cô G không sửa đổi, nay nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, tình cảm không còn tôi yêu cầu ly hôn. Về con chung, tôi yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung vì từ nhỏ đến giờ các cháu luôn sống cùng tôi và ông bà nội, tôi không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Chúng tôi không có tài sản chung và không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn là bà Đoàn Thị G để lấy lời khai, tham gia hòa giải nhưng bà G đều không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án, nên Tòa án không lấy được lời khai của bà G và cũng không hòa giải được vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Đoàn Thị G là bị đơn đã được Tòa án nhân dân thành phố N triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Đoàn Thị G.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Mặc dù không lấy được lời khai của bị đơn là bà Đoàn Thị G và tại phiên tòa bị đơn cũng vắng mặt nhưng theo lời khai của nguyên đơn thì ông Nguyễn Văn T và bà Đoàn Thị G kết hôn tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã NT, huyện NT, tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04 ngày 16 tháng 10 năm 1998. Nên quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn T và bà Đoàn Thị G được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa ông T giữ nguyên yêu cầu ly hôn với bà Đoàn Thị G. Xét lời khai của ông T thì cuộc sống chung vợ chồng giữa ông T, bà G có nhiều mâu thuẫn và không tìm được phương pháp nào để tiếp tục sống chung với nhau nữa. Theo ông T thì do bà G sống không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên bỏ nhà đi, khi về thì không nói lý do nên vợ chồng thường kình lộn. Mặc dù ông T đã khuyên nhủ nhiều nhưng bà G không thay đổi. Nhận thấy không thể có hạnh phúc với người vợ như vậy, tình cảm không còn nên ông T yêu cầu ly hôn. Như vậy mâu thuẫn giữa ông T và bà G đã đến hồi trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, bà G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để giải quyết việc ly hôn giữa hai người nhưng bà G đều không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án. Điều đó chứng tỏ bà G không quan tâm gì đến cuộc hôn nhân này nữa. Việc ông T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Đoàn Thị G là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của ông T.

[3] Về con chung: Vợ chồng ông T, bà G có hai con chung là Nguyễn Thị Thu T- sinh ngày 14/8/2000 và Nguyễn Đăng K- sinh ngày 24/01/2003, theo ông T thì các cháu hiện đang sống cùng ông T. Mặt khác, cả hai cháu T, K đều có lời khai là muốn được sống cùng với bố nếu bố, mẹ ly hôn. Do vậy yêu cầu của ông T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung đến tuổi thành niên là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con chung, ông T không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Ông T xác định tài sản chung không có và xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị đơn bà Đoàn Thị G đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc kiện của nguyên đơn và Tòa án cũng không hòa giải được vụ án. Vì vậy không có cơ sở để giải quyết yêu cầu của bà Đoàn Thị G.

[5] Về án phí: Ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Ông Nguyễn Văn T được ly hôn với bà Đoàn Thị G.

- Giao 02 con chung là Nguyễn Thị Thu T- sinh ngày 14/8/2000 và Nguyễn Đăng K- sinh ngày 24/01/2003 cho ông Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên, ông T không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con. Bà Đoàn Thị G được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết ông T, bà G đều có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung cũng như cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Ông Nguyễn Văn T xác định tài sản chung không có và xác định không có nợ chung nên Tòa không xét.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm ông T đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0006434 ngày 12 tháng 4 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N. Ông Nguyễn Văn T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2017/HNGĐ-ST ngày 18/08/2017 về ly hôn

Số hiệu:154/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về