Bản án 153/2018/HSST ngày 25/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 153/2018/HSST NGÀY 25/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 169/2018/HSST ngày 06 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/QĐXXST- HS ngày 13/6/2018 đối với bị cáo:

Lê Thị H1 - Sinh năm 1979. Trú quán: Thôn 4, xã M, huyện L, thành phố N.

- Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

- Bố: Lê Đắc Chiến- Sinh 1946 (đã chết); Mẹ: Đặng Thị Sách- Sinh năm 1947.

- Gia đình có 06 anh, chị em, bị cáo là thứ 4.

- Chồng: Vũ Quang Thành- Sinh năm 1979 Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh 2008.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/5/2018 đến 11/5/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bị hại: Chị Vương Thị Luyên- Sinh năm 1967, trú tại: Xóm 1, thôn

Thượng, xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Quang Thành- Sinh năm 1979, trú tại: Thôn 4, M, L, N (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/5/2018, Lê Thị H1 điều khiển xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382 đi từ xã M, huyện L, thành phố N đến cửa hàng quần áo “Hiền Moon” của chị Vương Thị Luyên ở Trung tâm thương mại chợ Giàu, phường Đồng Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tại cửa hàng bán quần áo của chị Luyên, lợi dụng sơ hở thiếu cảnh giác, H1 đã lấy của chị Luyến 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3 Pro J330 gold màu vàng để trên ghế nhựa và 2.700.000đ để trong túi xách màu đen trong thùng catton thì bị chị Luyên phát hiện bắt quả tang và trình báo công an đến tiếp nhận giải quyết.

Tại kết luận định giá ngày 17/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Từ Sơn kết luận: Chiếc điện thoại H1 lấy của chị Luyên có giá trị 2.700.000đ, tổng giá trị H1 chiếm đoạt là 5.400.000đ. Tại Cơ quan điều tra chị Luyên đã nhận lại toàn bộ tài sản do H1 trộm cắp và không yêu cầu H1 phải bồi thường, bồi hoàn gì.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382, H1 sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp, quá trình điều tra xác định đăng ký xe đứng tên chủ phương tiện là Vũ Quang Thành, sinh năm 1979, trú tại Thôn 4, M, L, N là chồng của H1. Ngày 09/5/2018 anh Thành không biết việc H1 sử dụng làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản, anh Thành đề nghị cơ quan pháp luật trả lại cho anh chiếc xe mô tô để làm phương tiện phục vụ cuộc sống.

Với nội dung trên tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 02 ngày 05/6/2018 của Việt kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn truy tố Lê Thị H1 tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Lê Thị H1 khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội như đã nêu và thừa nhận các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, truy tố và đưa bị cáo ra xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Quang Thành trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382 là tài sản hợp pháp của anh do anh đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 09/5/2018, Lê Thị H1 vợ anh có sử dụng làm phương tiện đi lại, anh không biết việc H1 dùng xe đi phạm tội, anh Thành đề nghị tòa án trả lại cho anh chiếc xe.

Cũng tại phiên tòa, sau khi đánh giá, phân tích tính chất nguy hiểm của bị cáo đã gây ra cho xã hội, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tòa án tuyên bố Lê Thị H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách từ 18 đến 24 tháng, giao bị cáo cho UBND nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho anh Vũ Quang Thành chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382 và 01 đăng ký xe mô tô do Công an thành phố N cấp ngày 20/7/2010 mang tên Vũ Quang Thành.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Trong phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân, không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị tòa xét cho bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, các con còn nhỏ mở lượng khoan hồng cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản phạm tội quả tang, ý kiến trình bày của người bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra, đủ căn cứ xác định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/5/2018, tại cửa hàng quần áo của chị Vương Thị Luyên có địa chỉ tại Trung tâm thương mại chợ Giàu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, lợi dụng chị Luyên sơ hở trong quản lý tài sản, Lê Thị H1 đã lén lút chiếm đoạt của chị Luyên 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng và số tiền 2.700.000đ, với tổng giá trị chiếm đoạt là 5.400.000đ. Hành vi như đã nêu của Lê Thị H1 đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Quyết định truy tố của VKSND thị xã Từ Sơn truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như đã nêu là đúng tội, đúng người, đúng pháp luật

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà trực tiếp là tài sản của chị Vương Thị Luyên, gây mất trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, do vậy với bị cáo cần phải đưa ra xét xử kịp thời và áp dụng chế tài pháp luật hình sự để xử lý mới đảm bảo giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội. Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo xuất thân từ gia đình lao động, có nghề nghiệp ổn định, có nơi cư trú rõ ràng, quá trình sống, lao động và sinh hoạt tại địa phương luôn chấp hành tốt đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tài sản do bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên thấy không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được giáo dục, cải tạo tại địa phương dưới sự theo dõi, giúp đỡ của chính quyền, cộng đồng và gia đình cũng đủ điều kiện cảm hóa, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù, với bị cáo lẽ ra cần áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của BLHS. Song xét hoàn cảnh bị cáo khó khăn, các con của bị cáo còn nhỏ đang trong tuổi ăn học nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382 là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Vũ Quang Thành. Chiếc xe do bị cáo sử dụng trái phép, việc anh Thành đề nghị trả lại chiếc xe mô tô và đăng ký xe mô tô thấy là phù hợp cần chấp nhận.

+ Về Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại đầy đủ cho người bị hại, người bị hại không có yêu cầu nên không giải quyết.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về tố tụng: Tại phiên tòa người bị hại chị Vương Thị Luyên đã được tòa án triệu tập hợp lệ, song chị Luyên xin vắng mặt. Xét quá trình điều tra chị Luyên đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, tài sản bị chiếm đoạt chị đã nhận lại toàn bộ và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự, sự vắng mặt của chị Luyên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Điều 47, Điều 65 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106, 135, 136, 292, 326, 327, 329, 331, 332, 333 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Lê Thị H1 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UND xã M, huyện L, thành phố N theo dõi, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách của án treo nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc theo dõi, quản lý, giáo dục được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

- Xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Vũ Quang Thành chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30Z9- 7382 và 01 đăng ký xe mô tô do Công an thành phố N cấp ngày 20/7/2010 mang tên chủ phương tiện Vũ Quang Thành.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HSST ngày 25/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:153/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về