Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 153/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 378/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 166/2018/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1990.

Thường trú: Tổ 41, ấp 1, xã A, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ liên lạc: Tổ 40, ấp 5, xã Long An, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng Th, sinh năm 1987.

Thường trú: Số nhà 517/192, ấp 1, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Th vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 16 tháng 5 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Th kết hôn vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, do cả hai đều tự nguyện.

Sau khi kết hôn, ban đầu chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian sau thì xẩy ra nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, hay cãi nhau, do anh Th thường xuyên say xỉn và hay kiếm chuyện chửi mắng chị, anh Th không quan tâm lo lắng cho cuộc sống gia đình dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được. Đến nay mặc dù đã cố gắng chịu đựng nhưng chị không thể tiếp tục chung sống với anh Th được nữa. Từ tháng 7/2017 anh chị đã sống ly thân, chị về nhà mẹ ruột để sống, tình cảm vợ chồng không còn, không còn quan tâm thương yêu nhau. Do đó, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Th.

Về con chung: Có 01 con là Nguyễn Hoàng Quốc T1, sinh ngày 23/02/2012, hiện đang sống với anh Th và ông bà nội. Chị T yêu cầu giao con cho anh Th nuôi vì cháu rất mến ông bà nội, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Bị đơn anh Nguyễn Hoàng Th: Anh Th đã được tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử nhưng anh Th vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, thời hạn giải quyết, thu thập chứng cứ, việc xét xử của Hội đồng xét xử, việc tuân theo pháp luật của Thư ký. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện chị T và anh Th chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo chị T thì cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc do anh Th không quan tâm chăm sóc cuộc sống chung, chị xác định mục đích hôn nhân không đạt được. Còn phía anh Th, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh vẫn không đến Tòa án làm việc chứng tỏ anh không còn quan tâm đến cuộc sống chung của vợ chồng nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cho chị T được ly hôn với anh Th; Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Quốc T1, sinh ngày 23/02/2012, hiện đang sống với anh Th, chị T yêu cầu giao cháu T1 cho anh Th nuôi dưỡng. Để cuộc sống của cháu được ổn định nên áp dụng các Điều 81, 82, 83, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu T1 cho anh Th chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời không đặt ra vấn đề cấp dưỡng đối với chị T; Về tài sản chung, nợ chung:

Không có nên không xem xét; Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 26/9/2018 nên căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị T. Anh Th đã được tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử nhưng anh Th vẫn vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh Th.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Th có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 89/2009 ngày 01/8/2009, trên cơ sở tự nguyện nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau, thương yêu nhau, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, giữa chị T và anh Th có phát sinh mâu thuẫn thì chị T mới bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống, không còn sống chung với anh Th từ tháng 7 năm 2017 cho đến nay. Theo kết quả xác minh tại địa phương thì anh Th vẫn còn sinh sống tại địa phương nhưng anh Th vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện anh không còn quan tâm đến hôn nhân với chị T nữa, nên chị T trình bày có mâu thuẫn đã trầm trọng là có cơ sở. Như vậy, giữa chị T và anh Th không còn tình nghĩa vợ chồng, không thể hàn gắn, đoàn tụ được, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị T yêu cầu được ly hôn với anh Th là có căn cứ chấp nhận, cho ly hôn giữa chị T và anh Th.

[3] Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Quốc T1, sinh ngày 23/02/2012, hiện đang sống với anh Th và ông bà nội. Chị T yêu cầu giao cháu T1 cho anh Th nuôi vì cháu rất mến ông bà nội, chị không cấp dưỡng nuôi con. Xét anh Th có nơi ở ổn định, có thêm sự chăm sóc và yêu thương của ông bà nội của cháu nên cần đảm bảo cuộc sống ổn định và đảm bảo lợi ích mọi mặt của cháu, cần giao cháu T1 cho anh Th tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con thì anh Th không gửi yêu cầu gì cho Tòa án nên tạm thời chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị T khai không có. Anh Th thì không có lời khai cũng như không gửi yêu cầu gì cho Tòa án nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị T khai không có và theo kết quả xác minh tại địa phương thì trong thời kỳ hôn nhân của anh chị, không có ai tranh chấp với anh chị về nghĩa vụ tài sản nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

[7] Đối với ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng T về việc “Tranh chấp ly hôn” đối với anh Nguyễn Hoàng Th, cho ly hôn giữa chị T và anh Th.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Quốc T1, sinh ngày 23/02/2012. Giao cháu T1 cho anh Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự khai không có nên không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 002297 ngày 25/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Chị T đã nộp xong.

Chị T, anh Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:153/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về