TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 153/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 23 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 186/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự: Nguyên đơn: ông Huỳnh Công D, sinh năm: 1977. (Có mặt).
Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.
Bị đơn: bà Đinh Thị T, sinh năm: 1981. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn ông Huỳnh Công D trình bày: ông và bà T tìm hiểu, quen biết và kết hôn vào năm 1998, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, hôn nhân không hạnh phúc và không thể hàn gắn, ông và bà T không còn chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên ông yêu cầu ly hôn với bà T.
- Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Công D1, sinh năm 1999 (đã trưởng thành) nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và Huỳnh Thị Kim V, sinh ngày 27/3/2006 hiện do bà T đang nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn ông đồng ý để bà T tiếp tục nuôi con chung và ông không cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về quan hệ tài sản chung: ông D xác định không có tài sản chung.
- Về quan hệ nợ chung: ông D xác định không có nợ chung.
Bị đơn bà Đinh Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà T vắng mặt không r lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của bà T về nội dung đơn khởi kiện của ông D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Ông Huỳnh Công D yêu cầu ly hôn với bà Đinh Thị T. Bà T có nơi cư trú tại ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn bà Đinh Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Huỳnh Công D và bà Đinh Thị T xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau thời gian chung sống, do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau, ông D và bà T không còn chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay. Ông D xác định không còn tình cảm với bà T và không thể hàn gắn được; nếu tiếp tục chung sống sẽ không đảm bảo hạnh phúc. Ông D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà T. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Huỳnh Công D là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Công D1, sinh năm 1999 (đã trưởng thành) nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và Huỳnh Thị Kim V, sinh ngày 27/3/2006 . Trước đây, vợ chồng cùng nuôi con chung nhưng từ khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu V sống với bà T cho đến nay. Trong thời gian sống với bà T, bà T cũng chăm sóc tốt và đảm bảo điều kiện sinh hoạt, ăn ở cho cháu.
Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, bà T cũng có yêu cầu được nuôi dưỡng cháu V và tại biên bản ghi ý kiến ngày 10/4/2018, cháu V cũng có nguyện vọng sống với mẹ để thuận tiện cho việc học tập, đi lại và sinh hoạt của cháu. Mặt khác, ông D cũng đồng ý để bà T tiếp tục nuôi cháu V, không cấp dưỡng nuôi con. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông D, quyết định giao cháu V cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất, tinh thần cho các cháu và phù hợp với quy định pháp luật.
Ông D không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng ông có quyền tới lui trông nôm, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông D thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, ghi nhận ý kiến của bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung và ông D cũng có ý kiến không cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, ông D không buộc ông D cấp dưỡng nuôi con chung.
[6] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ý kiến của ông Huỳnh Công D trình bày không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ý kiến của ông Huỳnh Công D trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8] Về án phí: ông Huỳnh Công D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.
- Các Điều 28, 35, 146, 147, 227, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Công D.
- Về quan hệ hôn nhân: ông Huỳnh Công D được ly hôn với bà Đinh Thị T.
- Về quan hệ con chung: bà Đinh Thị T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Huỳnh Thị Kim V, sinh ngày 27/3/2006. Ông Huỳnh Công D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông D không trực tiếp nuôi con chung nhưng ông có quyền tới lui trông nôm, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông D thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Huỳnh Công D trình bày không có, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
- Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ông Huỳnh Công D trình bày không có, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Huỳnh Công D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0019367 ngày 19/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông D đã nộp xong.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Ông Huỳnh Công D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bà Đinh Thị T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 153/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về