Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 01/02/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 518/2017/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Đặng Văn C, sinh năm 1964

Địa chỉ: 226/13/14 đường A, phường E, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Ngô Thị Tuyết M, sinh năm 1966

Địa chỉ: Deutschland, Germany.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22/8/2017 và bản tự khai ngày 28/11/2017, nguyên đơn ông Đặng Văn C trình bày:

Ông và bà Ngô Thị Tuyết M tự nguyện tìm hiểu kết hôn với nhau vào năm1990, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND Phường E, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 00053 quyển số 01/1990 ngày 04/8/1990.

Sau thời gian chung sống với nhau giữa vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do giữa vợ chồng có khác biệt về quan điểm sống, không đồng nhất mọi ý kiến, thường xảy ra cãi vã có khi còn xô xát nhau. Mâu thuẫn kéo dài ngày càng gay gắt, không thể hòa giải được nữa. Năm 2000, bà M bỏ về nhà cha mẹ ruột ở; đến năm 2004 thì bà M ra nước ngoài sinh sống. Từ đó cho đến nay vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau. Ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân với bà M.

Về con chung: có một người con tên Đặng Quốc B, sinh ngày 07/11/1991. Người con chung đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại Bản tự khai ngày 29/11/2017 của bị đơn bà Ngô Thị Tuyết M được Đại sứ quán Việt Nam tại CHLB Đức chứng nhận chữ ký ngày 11/12/2017 có nội dung như sau:

Bà và ông Đặng Văn C kết hôn với nhau vào năm 1990 theo giấy chứng nhận kết hôn số 00053 quyển số 01/1990 do UBND phường E, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/8/1990.

Thời gian đầu chung sống ông bà rất hạnh phúc nhưng sau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong mọi ý kiến hơn nữa bà không thể chịu nỗi áp lực từ gia đình chồng nên hai bên thường cãi vã, xô xát nhau. Vào khoảng năm 2000, bà phải đưa con về nhà mẹ ruột sống. Từ đó mâu thuẫn ngày càng lớn và cũng vì buồn chuyện gia đình nên năm 2004 bà đi sang Đức sinh sống cho đến nay. Nay đối với yêu cầu ly hôn của ông C, bà đồng ý.

Về con chung: xác nhận có 01 người con chung như ông C đã khai là đúng. Hiện người con đã trưởng thành nên bà cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Đặng Văn C, bị đơn bà Ngô Thị Tuyết M đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn ông Đặng Văn C đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn bà Ngô Thị Tuyết M cư trú tại CHLB Đức; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và  Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tòa án không thu thập chứng cứ nên căn cứ khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa sơ thẩm.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn ông Đặng Văn C, bị đơn bà Ngô Thị Tuyết M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Ông Đặng Văn C và bà Ngô Thị Tuyết M tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 1990, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 00053, quyển số 01/1990 ngày 04/8/1990 của Ủy ban nhân dân Phường 12, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn, tuân thủ đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Theo lời khai của cả ông Đặng Văn C và bà Ngô Thị Tuyết M thì trong thời gian sống chung giữa vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng ý kiến về mọi mặt, thường xảy ra cãi vã, gây gổ, xô xát nhau. Năm 2000, bà M bỏ về nhà mẹ ruột ở, giữa vợ chồng vẫn không tạo điều kiện hàn gắn tình cảm. Sau đó đến năm 2004 thì bà M đi sang Đức định cư cho đến nay, vợ chồng mạnh ai nấy sống không liên lạc với nhau. Ông C, bà M đều xác định không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa đôi bên là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: đôi bên thống nhất khai có 01 người con chung là Đặng Quốc B, sinh ngày 07/11/1991. Ý kiến của ông C và bà M đều xác định người con đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: ông C, bà M xác định không có.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Luật phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn C;

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Văn C  được ly hôn bà Ngô Thị Tuyết M.

Giấy chứng nhận kết hôn số 00053, quyển số 01/1990 của Ủy ban nhân dân phường 12, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/8/1990 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: người con chung Đặng Quốc B, sinh ngày 07/11/1991 đã thành niên. Ông Đặng Văn C và bà Ngô Thị Tuyết M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng ông Đặng Văn C nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông C đã nộp tại Biên lai thu số 0048137 ngày 14/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, ông C đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn ông Đặng Văn C và bị đơn bà Ngô Thị Tuyết M; ông Đặng Văn C được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, bà Ngô Thị Tuyết M được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 01/02/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:153/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về