Bản án 152/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 152/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 133/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 238/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1973; nơi cư trú: Xã ĐB, huyện AD, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân Q, sinh năm 1971; nơi cư trú: 1 McCartney Court, Robinvale VICTORIA 3549 - Australia; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 8 năm 2021 và các lời khai gửi đến Tòa án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Xuân Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng vào ngày 31 tháng 3 năm 1998. Sau khi kết hôn, chị và anh Q chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và không có mâu thuẫn gì lớn trong khoảng thời gian 20 năm. Năm 2017, anh Q sang Úc làm việc, vẫn thường xuyên liên lạc với chị và gia đình. Năm 2019, quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Q bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không còn tình cảm với nhau nữa. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có nên chị và anh Q đã thống nhất đồng ý ly hôn để giải phóng cho nhau. Do đó, chị đã có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Xuân Q.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Xuân Q có hai con chung là Nguyễn Thanh T sinh ngày 06 tháng 7 năm 1998 và Nguyễn Minh A sinh 08 tháng 01 năm 2010. Hiện cháu Nguyễn Thanh T đã đủ tuổi trưởng thành và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn cháu Nguyễn Minh A vẫn đang ở với chị. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu Nguyễn Minh A cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu Minh A trưởng thành hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Xuân Q tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Đơn trình bày của anh Nguyễn Xuân Q đã được công chứng tại Tổng lãnh sự quán nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Sydney, Australia gửi về Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, anh Nguyễn Xuân Q trình bày thống nhất với chị Hoàng Thị H về thời gian kết hôn, quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng. Anh Nguyễn Xuân Q có quan điểm đồng ý với yêu cầu ly hôn mà chị Hoàng Thị H đưa ra. Anh Nguyễn Xuân Q thống nhất với lời khai của chị Hoàng Thị H về việc vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thanh T sinh ngày 06 tháng 7 năm 1998 và Nguyễn Minh A sinh 08 tháng 01 năm 2010, hiện cháu Nguyễn Thanh T đã đủ tuổi trưởng thành, còn cháu Nguyễn Minh A, anh và chị H đã thống nhất thoả thuận trong trường hợp vợ chồng anh ly hôn thì đề nghị Toà án giải quyết giao cháu Nguyễn Minh A cho chị Hoàng Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Minh A trưởng thành hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị H tạm thời không yêu cầu anh phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản chung: Anh và chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Do anh Nguyễn Xuân Q đang ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày của các đương sự,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Hoàng Thị H có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh Nguyễn Xuân Q. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Hoàng Thị H hiện đang cư trú ở thành phố Hải Phòng, bị đơn anh Nguyễn Xuân Q hiện đang cư trú ở nước ngoài nên theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên toà, chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q đều vắng mặt và đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã được Ủy ban nhân dân phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 31 tháng 3 năm 1998. Theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q cùng thừa nhận vợ chồng chung sống có mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, hiện mỗi người sống một nước, không ai quan tâm đến ai, không còn yêu thương nhau. Nay, cả hai người cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên việc chị Hoàng Thị H có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Xuân Q là có căn cứ chấp nhận. Xét quan hệ hôn nhân của chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị xin được ly hôn của chị Hoàng Thị H đối với anh Nguyễn Xuân Q.

[4] Về con chung: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q có hai con chung là Nguyễn Thanh T sinh ngày 06 tháng 7 năm 1998 và Nguyễn Minh A sinh 08 tháng 01 năm 2010. Hiện cháu Nguyễn Thanh T đã đủ tuổi trưởng thành và có khả năng lao động, còn cháu Nguyễn Minh A vẫn đang ở với chị Hoàng Thị H. Anh Nguyễn Xuân Q hiện đang ở nước ngoài không thể nhận nuôi con, chị Hoàng Thị H có quan điểm đồng ý nhận trực tiếp nuôi con, bản thân cháu Nguyễn Minh A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Minh A cho chị Hoàng Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị H tạm thời không yêu cầu anh Nguyễn Xuân Q cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q không ai yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị H là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Xuân Q.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh A sinh ngày 08 tháng 01 năm 2010 cho chị Hoàng Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị H tạm thời không yêu cầu anh Nguyễn Xuân Q cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Xuân Q không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đông an phí dân sự sơ thẩm . Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghin ) đông theo biên lai số 0019919 ngày 10 tháng 8 năm 2021 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Hoàng Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Hoàng Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Anh Nguyễn Xuân Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:152/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về