TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 152/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 115/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 6 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 51/2020/HSST-QĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:
1/ Trương Ánh H, sinh năm 1977 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký thường trú: Số 40/4 tổ 91, khu phố 6, phường T, thành phố B, Đồng Nai.
Nơi sinh sống: Số 40/4 tổ 91, khu phố 6, phường T, thành phố B, Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 4/12. Dân tộc: Kinh.
Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Trương Văn D (đã chết) và bà Trần Thị L (đã chết).
Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất. Có chồng là Trần Duy C, sinh năm 1972 và 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2000.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại Số 40/4 tổ 91, khu phố 6, phường T, thành phố B, Đồng Nai (có mặt).
2/ Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1987 tại Đồng Nai.
Nơi đăng ký thường trú: Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Nơi sinh sống: Ấp 2, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Nội trợ. Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1957 và bà Thái Thị L, sinh năm 1959.
Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất. Có chồng là Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1983 (đã ly thân). Hiện sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1985. Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2020.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào chiều ngày 04/02/2020, tại bãi đất trống gần bờ sông thuộc ấp 4, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai có nhiều người tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh bài cào 3 lá được, thua bằng tiền, trong đó Trương Ánh H sử dụng số tiền 6.800.000 đồng để đánh bạc và thắng được số tiền 7.600.000 đồng; Nguyễn Thị Mộng T sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc không thắng, không thua. Khi đánh bạc, thì những người tham gia quy định làm cái xoay theo vòng tròn với hình thức và tỷ lệ thắng thua như sau: Mỗi người tham gia đánh bạc được chia 03 lá bài (loại bài tây 52 lá) để tính điểm so với điểm của người cầm cái để phân định thắng thua. Nếu 03 lá bài có hình JQK (ba cào) thì được xác định là lớn nhất, tiếp theo là 09 điểm cho đến 01 điểm và nhỏ nhất là 10 điểm (bù). Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày Công an xã T phát hiện truy bắt thì những người chơi bạc bỏ chạy thoát còn H và T bị bắt quả tang như đã nêu trên.
Vật chứng và tài sản thu giữ gồm: 02 bộ bài có hình người 52 lá đã sử dụng; 01 cái chăn bằng vải màu đỏ; 02 tấm nilong 1m50 x 1m50 số tiền 1.000.000 đồng thu trên chiếu bạc; thu giữ của Trương Ánh H 17.400.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J7; thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T số tiền 1.200.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Sam sung A6.
Đối với số tiền 3.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J7 thu giữ của Trương Ánh H và số tiền 900.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung A6 thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T, xét không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra Công an huyện L đã trả lại cho Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T.
Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, các bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 130/CT-VKSLT ngày 12 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố các bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T về tội danh: “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trương Ánh H từ 30.000.000đ đến 35.000.000đ sung công quỹ Nhà nước; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mộng T từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ sung công quỹ Nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, đã có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 14 giờ 30 ngày 04/02/2020 tại bãi đất trống gần bờ sông thuộc ấp 4, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai, Trương Ánh H, Nguyễn Thị Mộng T (cùng một số người chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền bằng hình thức đánh bài cào 03 lá, với tổng số tiền được xác định dùng đánh bạc là 15.700.000 đồng (trong đó thu giữ trên chiếu bạc 1.000.000 đồng; thu giữ của Trương Ánh H 14.400.000 đồng; thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T 300.000 đồng).
Hành vi của các bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1, Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố các bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[2] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới mọi hình thức là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động và muốn có tiền một cách dễ dàng để thỏa mãn mục đích tiêu xài cá nhân, các bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn minh của xã hội, đồng thời còn có thể là nguyên nhân kéo theo các loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Trong vụ án này, bị cáo H và bị cáo T cùng thực hiện tội phạm, hành vi của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như sau:
Các bị cáo có nhân thân tốt và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, do đó không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ sức răn đe và phù hợp, tạo điều kiện cho các bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[3] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 3.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J7 Pro thu giữ của Trương Ánh H và số tiền 900.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung A6 thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T, xét không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra Công an huyện L đã trả lại cho Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T là đúng quy định pháp luật.
- 02 bộ bài có hình người 52 lá đã qua sử dụng; 01 cái chăn bằng vải màu đỏ; 02 tấm nilong kích thước 1m50 x 1m50 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu để tiêu hủy:
- Số tiền 15.700.000 đồng (trong đó thu giữ trên chiếu bạc 1.000.000 đồng, thu giữ của Trương Ánh H 14.400.000 đồng, thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T 300.000 đồng) là tiền sử dụng vào việc đánh bạc và do đánh bạc mà có nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
[4] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Đối với những người tham gia đánh bạc cùng với H và T tuy nhiên khi bị phát hiện đã bỏ chạy nên chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau.
[5] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 17; Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố các bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T phạm tội: “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Trương Ánh H số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mộng T số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài có hình người 52 lá đã qua sử dụng; 01 cái chăn bằng vải màu đỏ đã qua sử dụng; 02 tấm nilong kích thước 1m50 x 1m50 đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/6/2020):
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 15.700.000 (mười lăm triệu bảy trăm nghìn) đồng (trong đó thu giữ trên chiếu bạc 1.000.000 đồng, thu giữ của Trương Ánh H 14.400.000 đồng; thu giữ của Nguyễn Thị Mộng T 300.000 đồng) (Theo Biên lai thu tiền số 06839 ngày 16/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L).
Về án phí: Bị cáo Trương Ánh H và Nguyễn Thị Mộng T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 152/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 152/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về