Bản án 152/2018/HNGĐ-ST ngày 05/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 152/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 12 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 439/2018/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 về “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Q, sinh năm 1987. Có mặt.

Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn Trong E, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/9/2018 và đơn khởi kiện sửa đổi ngày 12/11/2018, bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Q trình bày:

Về hôn nhân: Bà Lê Thị Q và ông Trần Văn Trong E tự nguyện kết hôn vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 03/4/2007. Bà Q và ông E sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau do ông E cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm chăn sóc vợ con; bà Q cố gắng hàn gắn nhưng ông E không thay đổi; bà Q và ông E không còn sống chung từ tháng 08/2018 cho đến nay. Nay bà Q xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông E nên bà Q làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà Q được ly hôn với ông E.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre đã triệu tập hợp lệ nhiều lần bị đơn ông Trần Văn Trong E để tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông E vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của ông E và không tiến hành hòa giải được.

Về con chung: Bà Lê Thị Q khai có một con chung tên là Trấn Chí V, sinh ngày 09/8/2015; bà Q đồng ý để ông E là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Chí V và bà Q không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Q khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Q về việc ly hôn với ông Trần văn Trong E.

- Về con chung: Giao cho ông Trần Văn Trong E là người trực tiếp nuôi con chung tên là Trần Chí V, sinh ngày 09/8/2015. Bà Lê Thị Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Bà Lê Thị Q khởi kiện ông Trần Văn Trong E. Hiện nay, ông Trần Văn Trong E, sinh năm 1984; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Ông Trần Văn Trong E là bị đơn được Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Trần Văn Trong E.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 03/4/2007, Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho bà Lê Thị Q và ông Trần Văn Trong E nên quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Q và ông Trần Văn Trong E là hợp pháp. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau; ông E cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con; bà Q cố gắng hàn gắn nhưng ông E không thay đổi. Bà Q xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông E nên không còn khả năng đoàn tụ. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Q và ông E đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu ly hôn của bà Q có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[3] Về việc nuôi con: Bà Lê Thị Q khai có một con chung tên là Trần Chí V, sinh ngày 09/8/2015 và hiện nay cháu V đang sống với ông E. Tại phiên tòa, bà Q đồng ý để ông E là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Xét lời trình bày của bà Q không yêu cầu được nuôi con là tự nguyện và phù hợp theo quy định tại Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận để ông E là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị Q không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Trần Văn Trong E đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên không có ý kiến hay yêu cầu gì nên phải chịu hậu quả bất lợi về sự vắng mặt của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét đóng góp chi phí nuôi con đối với bà Q.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Lê Thị Q phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

[7] Tại phiên tòa, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 57 và Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Q đối với ông Trần Văn Trong E. Bà Lê Thị Q được ly hôn với ông Trần Văn Trong E.

2. Về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao cho ông Trần Văn Trong E là người trực tiếp nuôi con chung tên là Trần Chí V, sinh ngày 09/8/2015; bà Lê Thị Q không cấp dưỡng nuôi con. Bà Lê Thị Q là người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Bà Lê Thị Q phải nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0019911 ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

5. Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2018/HNGĐ-ST ngày 05/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:152/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về