Bản án 15/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 173/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. VÕ NHƯ M, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 02/01/2002 tại tỉnh Quảng Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Nam.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hóa: 12/12.

Nghề nghiệp: Không.

Con ông: Võ B (đã chết) và bà Trần Thị S (sinh năm 1966). Gia đình có bốn anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/10/2020. Có mặt tại phiên tòa.

2. LÊ CHÍ H, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 20/3/2001 tại tỉnh Quảng Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hóa: 12/12.

Nghề nghiệp: Công nhân.

Con ông: Lê Văn H1 (sinh năm: 1960) và bà Phan Thị T (sinh năm 1964).

Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ 5 trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 25/10/2020. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 25/10/2020, Võ Như M liên lạc rủ Lê Chí H ra Đà Nẵng chơi. Sau đó, H điều khiển xe mô tô BKS 92E1-573.25 đến nhà của M chở M đi, trên đường đi M rủ H mua 04 viên ma túy để sử dụng, H đồng ý. Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày, M và H đến đường Đ, thành phố Đà Nẵng, M điện thoại cho 01 người thanh niên (không xác định được lai lịch) hỏi mua 04 viên ma túy với giá 1.400.000 đồng và hẹn đến bãi biển số 3 tại đường G, thành phố Đà Nẵng. H chở M đến nơi đã hẹn. H đưa cho M số tiền 400.000 đồng, M bỏ thêm 1.000.000 đồng và đi bộ đến đoạn trước cổng bãi biển số 3 gặp người thanh niên mua 04 viên ma túy với giá 1.400.000 đồng. M cất 04 viên ma túy vào trong túi quần và ra xe cho H chở đi. Đến 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi H chở M đi đến trước nhà số 108 đường K, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị tổ công tác C3- 119 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang thu giữ số ma túy trên.

Tang vật chứng:

- Tạm giữ của Võ Như M:

+ 01 gói nilong kích thước 06x09 cm bên trong chứa 04 viên nén màu xám, hình chữ nhật khuyết bốn góc, một mặt khắc hình con bò, mặt còn lại khắc chữ Red bull, được niêm phong, ký hiệu là G.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, số imei:

868683045300419 gắn sim: 0334.163.332. M sử dụng liên lạc mua ma túy.

- Tạm giữ của Lê Chí H:

+ Số tiền 1.300.000 đồng, là tiền cá nhân của H.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, số imei:

866988040768995 gắn sim: 0352.649.117. H sử dụng liên lạc hàng ngày.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 92E1-573.25, số khung 6335LZ027139; số máy JF94E0065899 do Lê Chí H đứng tên sở hữu.

Kết quả thử nước tiểu của Võ Như M và Lê Chí H, kết quả âm tính với ma tuý.

Bản Kết luận giám định số 317/GĐ-MT ngày 02/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng kết luận: Các viên nén trong gói ni long trong bì niêm phong kí hiệu G gửi giám định là ma túy loại MDMA; khối lượng mẫu G là: 2,298 gam. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 1,803 gam mẫu G và toàn bộ vỏ bao.

Nguyên nhân dẫn đến việc Võ Như M, Lê Chí H phạm tội là do có lối sống buông thả, Võ Như M và Lê Chí H đi mua ma túy, tàng trữ trong người để sử dụng.

Quá trình điều tra, Võ Như M và Lê Chí H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trên.

Về xử lý vật chứng: Chuyển đến Chi cục thi hành án quận Thanh Khê bảo quản chờ xử lý các vật chứng sau:

- 1,803 gam mẫu G và toàn bộ vỏ bao được hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 317/GD-MT ngày 02/11/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, số imei:

868683045300419 gắn sim: 0334.163.332 thu giữ của Võ Như M.

- Số tiền 1.300.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, số imei: 866988040768995 gắn sim: 0352.649.117, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 92E1-573.25, số khung 6335LZ027139, số máy JF94E0065899 thu giữ của Lê Chí H;

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Võ Như M và Lê Chí H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Võ Như M mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Chí H mức án từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý tang vật vụ án:

- Tịch thu và tiêu hủy Mẫu vật là ma túy hoàn trả sau giám định.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, số imei: 868683045300419 gắn sim: 0334.163.332 thu giữ của Võ Như M.

- Trả lại cho bị cáo Lê Chí H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, số imei: 866988040768995 gắn sim: 0352.649.117 và số tiền 1.300.000đ nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Lê Chí H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 92E1-573.25, số khung 6335LZ027139, số máy JF94E0065899.

Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 18 giờ 30 phút 25/10/2020, Võ Như M và Lê Chí H đến bãi biển số 3 tại đường G, quận T, thành phố Đà Nẵng; H góp 400.000 đồng, M góp thêm 1.000.000 đồng mua được 2,298 gam ma túy loại MDMA của một người thanh niên (chưa xác định được lai lịch) để sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi H chở M đến trước nhà số 108 đường K, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị tổ công tác C3- 119 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang.

[2] Hành vi của Võ Như M và Lê Chí H là mua ma túy về sử dụng cho bản thân, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy nên cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 24/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Các bị cáo là người trưởng thành, có trình độ học vấn, là những thanh niên có sức khỏe, đang trong độ tuổi lao động, đáng lẽ ra các bị cáo phải ý thức được mình nên làm những gì để có ích cho gia đình, xã hội nhưng lại sớm đi vào con đường phạm tội, tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Riêng về ma túy Nhà nước đã có chính sách quản lý độc quyền nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo phải bị xử phạt, cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét hành vi của từng bị cáo trong vụ án thì thấy:

Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, M góp 1.000.000đ và H góp 400.000đ để M liên lạc mua ma túy về cùng sử dụng.

Đối với bị cáo M là người khởi xướng rủ rê bị cáo H mua ma túy về để sử dụng. Bị cáo H đồng ý và chở bị cáo M đi mua ma túy nên trong vụ án này, bị cáo M đóng vai trò chính. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để các bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo Võ Như M đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Lê Chí H, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo có ông nội được Nhà nước công nhận là Liệt sĩ trong sự nghiệp chống M, cứu nước; bà nội được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng 3. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng là ma túy hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 317/GĐ-MT, ngày 02 tháng 11 năm 2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, số imei: 868683045300419 gắn sim: 0334.163.332 là điện thoại của bị cáo M dùng để liên lạc mua ma túy nên cần sung công quỹ nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Các vật chứng sau đây không chứng minh được liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho chủ sở hữu theo điểm b khoản 3 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, số imei: 866988040768995 gắn sim: 0352.649.117 của Lê Chí H;

+ Số tiền 1.300.000đ là tiền tiêu xài cá nhân của Lê Chí H;

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 92E1-573.25, số khung 6335LZ027139, số máy JF94E0065899 do bị cáo Lê Chí H là chủ sở hữu. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, gia đình bị cáo có đơn trình bày nguồn gốc chiếc xe là do gia đình vay mượn để mua nhưng do ba của bị cáo là ông Lê Văn H1 tuổi cao nên giao lại cho H đứng tên chủ sở hữu; nay gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên xin được nhận lại chiếc xe để tiện cho việc đi lại của gia đình. Xét đơn trình bày của gia đình và thực tế Lê Chí H ở độ tuổi trưởng thành nên không có đủ điều kiện mua xe cho bản thân, gia đình đã tạo điều kiện để bị cáo có phương tiện đi lại làm việc và mưu sinh. Nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại xe cho bị cáo để tạo điều kiện cho gia đình bị cáo có phương tiện đi lại.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

[8] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp pháp luật.

[9] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố các bị cáo Võ Như M và Lê Chí H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Như M 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/10/2020.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Chí H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/10/2020.

II. Xử lý vật chứng:

1. Áp dụng điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01(một) bì niêm phong số 317/GĐ-MT, ngày 01 tháng 11 năm 2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

2. Áp dụng điểm b khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, số imei:

868683045300419 gắn sim: 0334.163.332 của Võ Như M.

3. Áp dụng điểm b khoản 3 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; trả lại cho Lê Chí H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh, số imei:

866988040768995 gắn sim: 0352.649.117 và số tiền 1.300.000đ nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

4. Áp dụng điểm b khoản 3 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; trả lại cho Lê Chí H: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 92E1-573.25, số khung 6335LZ027139, số máy JF94E0065899.

Các vật chứng nói trên Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng hiện đang tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Biên lai thu tiền ngày 30 tháng 12 năm 2020.

III. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Võ Như M và Lê Chí H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

IV. Người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về