Bản án 15/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2020/TLST-HS, ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 12/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh năm 1998 tại Nam Định; nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: thôn A, xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ; văn hoá¸: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính: Nam; con ông: Vũ Văn D (Đã chết); con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1978; chưa có vợ; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;

Bị tạm giữ, t¹m giam tại từ ngày 12-02-2020 đến nay “có mặt”.

Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959; địa chỉ: Xóm P, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định “vắng mặt”.

2. Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1973; địa chỉ: Xóm P, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định “vắng mặt” .

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 12-02- 2020, tại khu vực xóm P - xã T - huyện V - tỉnh Nam Định, Công an xã T phát hiện và bắt quả tang Vũ Văn T đang có hành vi cất giấu trái phép trong người 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,203 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, Vũ Văn T khai nhận hành vi của mình như sau:

Do cần ma túy để sử dụng nên khoảng 19 giờ ngày 12-02-2020, T cùng với một nam thanh niên tên M (M là bạn bè quen biết của T qua mạng xã hội) đi trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream sơn màu trắng, nâu của M và do M điều khiển (T không nhớ biển kiểm soát của xe) đi từ nhà của T ra khu vực thôn C, xã L, huyện V với mục đích tìm mua ma Túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực thôn C, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định, T gặp một nam thanh niên khoảng 30 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể của người này) đang đứng một mình ở lề đường, đoán người này có ma Túy bán nên T đã xuống xe, đi đến gần hỏi “Anh có hàng đá không, bán cho em gói ba” - ý của T là gói ma Túy đá giá 300.000 đồng, nam thanh niên này trả lời “Có”, T liền lấy 200.000 đồng và một thẻ cào điện thoại mệnh giá 100.000 đồng chưa sử dụng đưa cho nam thanh niên này, rồi nhận gói ma Túy của người này đưa cho và bỏ vào túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc. Sau khi mua được ma Túy, T lên xe mô tô do M điều khiển đi tìm nơi sử dụng ma Túy. Khi đến khu vực xóm P, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định, M bảo với T xuống xe đứng chờ M để M đi có việc tý rồi quay lại ngay, T xuống xe đợi M. Trong lúc đang đứng đợi M thì T bị lực lượng Công an xã T đang làm nhiệm vụ tại đây phát hiện T có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma Túy nên đã yêu cầu kiểm tra, do trong túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc có ma Túy, biết không thể che giấu được hành vi phạm tội của mình nên T đã tự giác giao nộp cho Cơ quan Công an 01 gói nhỏ có đặc điểm bên ngoài bọc bằng băng dính màu đen, bên trong là lớp ni lông màu trắng, trong cùng là các hạt tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là gói ma Túy đá (Methamphetamine) mà T vừa mua để sử dụng cho bản thân, được niêm phong ký hiệu M1. Ngoài ra Cơ quan Công an còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng - trắng đã cũ.

Công an xã T đã bàn giao Vũ Văn T cùng toàn bộ vật chưng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V để giải quyết theo quy định của pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trưng cầu giám định tang vật ký hiệu M1 thu giữ của T. Ngày 13-02-2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định có kết luận số 160/GĐKTHS kết luận mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nhỏ trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma Túy. Loại ma Túy: Methamphetamine, khối lượng mẫu M1: 0,203 gam.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSVB ngày 27-3-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Vò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 của Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Vò Văn T đã thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Vò Văn T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma Túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Vò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy”. Đề nghị xử phạt bị cáo Vò Văn T từ 12 đến 15 tháng tù;

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì mục đích tàng trữ ma Túy của bị cáo là để sử dụng.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma Túy đã thu giữ.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng không đến phiên toà, tuy nhiên họ đã có đầy đủ lời khai tại cơ quan điều tra, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người làm chứng theo quy định của pháp luật.

[3] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người làm chứng; bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 12-02-2020, tại khu vực xóm P, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định; Vũ Văn T đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma Túy với khối lượng 0,203 gam Methamphetaminne trong người nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an xã T, huyện V, tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang .

Với hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm tới trật tự quản lý kinh tế trong việc sản xuất, quản lý hàng cấm, tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma Túy và còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[7] Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì mục đích tàng trữ ma Túy của bị cáo là để sử dụng.

[9] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma Túy đã thu giữ của bị cáo đều là hàng cấm do đó căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự cần tịch thu cho tiêu hủy.

[10] Đối với nam thanh niên khoảng 30 tuổi đã bán ma Túy cho T tại khu vực thôn C, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định và nam thanh niên tên M đi cùng với T, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa rõ lai lịch, địa chỉ hai người trên ở đâu nên Cơ quan CSĐT Công an huyện V tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .

- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12- 02-2020.

2. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Vũ Văn T.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự .

Tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 160/GĐKTHS của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

(Như biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 30-3-2020 giữa Công an huyện V với Chi cục thi hành án dân sự huyện V).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về