Bản án 15/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST-HS, ngày 08 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Đức D, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1981, tại Thái Bình. Nơi cư trú: Xóm 2, xã TT, huyện TT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức T và bà Đỗ Thị L; bị cáo có vợ và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 603/2013/HSST ngày 05 tháng 12 năm 2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép ma túy”, tại bản án số 198/2012/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2012 của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, những tiền án này đều đã được xóa án tích; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10 tháng 01 năm 2020 đến ngày 18 tháng 01 năm 2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Chị Phạm Thị 1, vắng mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Hải D1, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại nhà nghỉ PT, ở thôn 3, xã TC, huyện VB, thành phố Hải Phòng, tổ công tác Công an huyện Vĩnh Bảo kiểm tra hành chính, thu giữ trong giày trái của bị cáo Lê Đức D đang đi 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy (mẫu vật được niêm phong, có chữ ký của bị cáo D); đồng thời thu giữ của bị cáo Lê Đức D 01 điện thoại màu đen lắp sim số 0353.267.816, 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, vỏ ốp màu đen lắp sim số 0965.995.650, 01 coóng thủy tinh, 03 bật lửa và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu BOSSCITY mang biển kiểm soát 29X1-1309.

Tại bản Kết luận giám định số 32/KLGĐ (Đ6), ngày 13 tháng 01 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

“Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 2,71 gam, là loại: Methamphetamine”.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Đức D khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 10 tháng 01 năm 2020 bị cáo D nhận được điện thoại của người bạn tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) rủ sang khu vực ngã 3 NA, xã TC, huyện VB chơi, D đồng ý. Bị cáo D sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 29X1- 1309 đến điểm hẹn, tại đây bị cáo đã gặp H. Do nghiện ma túy và cần ma túy để sử dụng nên bị cáo D đã nhờ H mua giúp ma túy sử dụng, H gọi điện cho người bán ma túy, khoảng 05 phút sau có một người mang ma túy đến (bị cáo D không quen biết người này) bán cho D 01 (một) túi nilon chứa ma túy với giá 2.000.000đ (hai triệu) đồng. Mua được ma túy, D cất số ma túy trên vào giày bên trái của mình đang sử dụng, Hải có việc nên về trước, D đi vào nhà nghỉ Phương Thảo để gặp một người bạn khác, nhưng do không gặp được nên Dũng đi ra đến cửa nhà nghỉ, thì bị Cơ quan Công an huyện Vĩnh Bảo bắt giữ như nội dung ở trên.

Bản Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo đã truy tố bị cáo Lê Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lê Đức D từ 36 (ba mươi sáu) tháng đến 42 (bốn mươi hai) tháng tù, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh, khung hình phạt:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người chứng kiến vụ việc, biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 14 giờ 00 phút ngày 10 tháng 01 năm 2020, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa nên đã đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ, ngày 10 tháng 01 năm 2020, bị cáo Lê Đức D đang tàng trữ 2,71g (hai phảy bảy mươi mốt) gam ma túy, loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng thì bị bắt giữ quả tang. Hành vi của bị cáo Dũng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến độc quyền quản lý Nhà nước về chất gây nghiện, tội phạm bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Nên cần xử phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần đánh giá tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân đối với bị cáo để quyết định hình phạt tương xứng.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án đã được xóa án tích, là người nghiện ma túy nên xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.

[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, đủ tính giáo dục và phòng ngừa chung. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị này.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng của vụ án: Đối với 03 bật lửa và 2,67gam tinh thể cùng toàn bộ vỏ bao bì của mẫu vật được niêm phong lại theo niêm phong số 32/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; 01 (một) cóng thủy tinh xác định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen bên trong lắp sim số 0353267816, 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, vỏ ốp màu đen lắp sim số 0965995650 là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội, tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin lại những tài sản này, nên cần trả lại cho bị cáo Lê Đức D. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X1–1309 bị cáo sử dụng do chưa xác định được các chủ sở hữu qua các lần mua bán, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau, Hội đồng xét xử không xét.

[10] Trong vụ án có đối tượng bán ma túy cho bị cáo Lê Đức D và người thanh niên tên H giúp bị cáo Lê Đức D mua ma túy. Nhưng chưa xác định được căn cước, lai lịch của hai người này. Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo tách ra, tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xét.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lê Đức D 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ 08 (tám) ngày (từ ngày 10 tháng 01 năm 2020 đến ngày 18 tháng 01 năm 2020) vào thời gian chấp hành hình phạt tù, bị cáo Lê Đức D còn phải chấp hành hình phạt tù là 35 (ba mươi lăm tháng), 22 (hai mươi hai) ngày.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) bật lửa và 01 bì giấy được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng niêm phong số 32/2020/PC09 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, 01 (một) cóng thủy tinh Trả lại bị cáo Lê Đức D 01 (một) chiếc điện thoại Nokia màu đen bên trong lắp sim số 0353267816, 01 (một) điện thoại Iphone 6 màu vàng, vỏ ốp màu đen lắp sim số 0965995650.

(Đặc điểm chi tiết tang vật theo biên bản giao nhận vật chứng, ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Đức D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về